Người Thầy Dạy Búp Bê (Tập Truyện)

  • 0 Ratings
  • 0 Want to read
  • 0 Currently reading
  • 0 Have read
Not in Library

My Reading Lists:

Create a new list

Check-In

×Close
Add an optional check-in date. Check-in dates are used to track yearly reading goals.
Today

  • 0 Ratings
  • 0 Want to read
  • 0 Currently reading
  • 0 Have read

Buy this book

Last edited by truong dinh
September 25, 2012 | History

Người Thầy Dạy Búp Bê (Tập Truyện)

  • 0 Ratings
  • 0 Want to read
  • 0 Currently reading
  • 0 Have read

This edition doesn't have a description yet. Can you add one?

Publish Date
Publisher
Văn Nghệ
Language
Vietnamese
Pages
124

Buy this book

Edition Availability
Cover of: Người Thầy Dạy Búp Bê (Tập Truyện)

Add another edition?

Book Details


Table of Contents

Truyện ngắn của Phan Trang Hy
NGƯỜI ĐÀN BÀ BÁN LỘC
Giờ giao thừa. Những tiếng chuông rung lên lay động màn đêm. Tiếng còi tàu báo hiệu năm mới. Những chòm pháo bông sáng rực cả khoảng trời. Mùa xuân đang đến.
Bà Ba sửa soạn lại những nhánh trầu, xếp chúng vào mủng. Năm mới đến, thế mà, bà vẫn cứ đều đều công việc của mình.
Bà làm nghề bán trầu cau hàng chục năm nay. Bà muốn đem lại nụ cười đỏ như son cho các bà, nên bà chọn nghề này. Hằng ngày, cứ sáng sớm là bà gánh hàng lên chợ. Vẫn chỗ ngồi khép nép giữa những đồ hàng đúng kiểu của cái chợ mua giành bán giựt, bà Ba đặt lên chiếc mủng những lá trầu, những vôi, những hột cau khô. Bà lầm lũi làm công việc của người già khi còn đủ sức để lo cho cái ăn, cái mặc của chính mình. Bà không đon đả mời mọc khách hàng. Khách của bà toàn là những người quen, gần như là những bạn già với bà. Lâu lâu mới có một vài đứa trẻ đến mua hàng của bà về cho nội, cho ngoại.
Thắp nén nhang làm lễ Hành khiển, bà khấn thầm : “Con là Nguyễn Thị Ba, năm nay 77 tuổi, làm nghề bán trầu cau, cư ngụ tại phường Phước Mỹ, bày biện hương đèn, hoa quả, trà bánh, cáo với các thần cho con được khỏe trong năm nay”. Bà biết rất rõ sức khỏe của mình. Tuổi già sức yếu là chuyện thường tình, ai cũng phải mang. Nhiều lần, đứa con trai muốn bà về sống với nó, nhưng bà từ chối. Bà không muốn làm phiền con cháu.
Nhìn khói hương bay nhẹ, bà thanh thản trong lòng, bà thầm nghĩ : “Cả cuộc đời mình, mình không làm điều gì xấu. Ước gì mình cứ khỏe để nhìn con, nhìn cháu nên danh, nên phận là mình mãn nguyện”.
Đèn điện khắp xóm bật sáng trưng chào xuân mới. Mọi người đều thức đón xuân. Chiếc cát-xét từ nhà ai vẳng lên khúc nhạc Hái lộc đầu năm. Bài hát làm bà nhớ lại thời con gái. Hồi đó bà thường đi lễ chùa hái lộc đầu xuân. Chỉ còn lại những kỷ niệm trong ký ức.
Bà dậy thật sớm, sớm hơn ngày thường, gánh trầu rời khỏi nhà…
Bà xếp những ngọn trầu, toàn là trầu tươi xanh trên mủng, rồi ngồi chờ đợi trước cổng chùa.
Nhiều người đi lễ đầu năm. Áo quần mới, lời nói tốt đẹp rộn lên. Ngày mới của năm mới bắt đầu.
Sương sớm thầm nhẹ trên những ngọn trầu. Sương tươi xanh trên mủng trầu của bà.
Một người đến chọn lộc đầu năm.
Hai người, rồi ba người đến mua lộc…
Ai cũng mua lộc đầu năm.
Sương xuân vẫn còn rơi. Chỉ còn lại đôi mủng trống.
Bà lặng lẽ đếm những tờ giấy bạc mới tinh. Một ngàn, hai ngàn, ba ngàn…Bà mở chiếc túi vải giắt trong lưng quần ra, rồi bỏ tiền vào.
Trên đường về nhà, bà nhai tiếp miếng trầu. Nụ cười già của bà đỏ thắm. Tiếng nhạc xuân vẳng đưa : Mùa xuân ! Một mùa xuân nho nhỏ, lặng lẽ dâng cho đời…
Những đứa cháu của bà sà vào lòng bà. Bà rút những tờ giấy bạc mới tinh, những đồng tiền bà bán lộc đầu năm lì xì cho bọn trẻ…
Tháng Hai, 1995
Phan Trang Hy
Trích từ tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
CÁNH VẠC BÊN ĐỜI
Cầm giấy mời trên tay, hắn mừng là các bạn cũ cùng lớp cách đây 25 năm còn nhớ tới hắn. Nước mắt hắn như muốn ứa ra. Cảm động ? Hay một lẽ gì khác ? Hắn nhẩm đọc lại giấy mời. Nghĩ tới bạn bè cùng lớp, hắn thấy như trẻ lại. Cái tuổi 40 thấm cuộc đời, thấm nỗi xót xa tuổi dại, như cái thuở niên thiếu, như cái thời ngây dại thư sinh, hắn thầm nghĩ về những đứa bạn.
Hắn học cũng không đến nỗi tồi. Cũng gọi là bằng bạn bằng bè. Có lần, cô ấy đến nhà hắn mượn vở, ấy là những khi cô ấy nghỉ ốm. Cô ấy không dám vào nhà hắn và hắn phải cầm vở ra đưa tận tay. Khi cô ấy trả vở, hắn cầm quyển vở trên tay, lật từng tờ, xem thử cô ấy có để thứ gì trong vở không. Vẫn những nét chữ không được đẹp lắm của hắn ! Thế mà, hắn vẫn thấy ánh mắt của cô ấy nhìn những con điểm thán phục.
Hắn có khiếu thẩm mỹ, chịu khó và lại hiền nên đứa bạn nào cũng thích đến nhà cùng hắn làm báo. Tờ báo của tổ hắn hoàn thành như là một kỳ công của ban biên tập, của một tòa soạn báo chứ chẳng chơi đâu. Và kể từ đấy, hắn nghĩ chắc là hắn sẽ theo nghề làm báo, chỉ có làm báo mới xứng nỗi đam mê của hắn.
Rồi hắn đậu Đại học Quảng Đà. Cô ấy cũng học đại học cùng trường với hắn. Hắn không học nghề báo. Hắn phải học cái ngành Kinh thương. Hắn cũng không lấy làm buồn. Hắn mơ màng, vẽ ra những ước mơ về cuộc đời. Ôi thôi đủ thứ của thời sinh viên. Đến bây giờ, nhiều lúc nhớ lại, hắn lấy làm tức cười cho sự mơ mộng không thực ấy.
Tháng Ba, 1975. Hắn cùng các bạn sinh viên giúp người gặp nạn. Tiếng súng, tiếng đại bác nổ bất cứ thời điểm nào. Ban Mê Thuột được giải phóng. Rồi quân Giải phóng đánh Huế. Đà Nẵng bị quân Cách mạng bao vây. Cô ấy đến tìm hắn.
- Anh Thanh, em sợ quá ! Anh có đi với em không ?
- Đi đâu ?
- Đi Mỹ.
- Không được ! Không lẽ anh bỏ ba mẹ anh và các em ?
- Anh không thương em !
- Sao không thương ?
- Thương, sao không theo em ?
Hắn và cô ấy đã khóc.
Ngày 29-3-1975, Đà Nẵng được giải phóng. Cô ấy đã ra đi. Hắn buồn vì cô ấy bỏ hắn mà đi, bỏ cái thành phố nghèo mà đi. Hắn đâu còn được thấy cô ấy nữa.
Hắn vào ngành Sư phạm vì Đại học Quảng Đà bị giải tán. Cuộc đời bốc hắn từ cái chỗ tưởng là ít nhất cũng là Phó Giám đốc một ngân hàng nào đó sang làm một anh giáo. Quả là hắn cũng còn may so với một số người, mới được vào Sư phạm.
Được học dưới mái trường Sư phạm, hắn tự an ủi là có nghề để sống, có việc để làm. Và rồi, nghề nghiệp đã rèn cho hắn yêu nghề hay vì một lẽ gì khác ? Nhiều lúc hắn tự nhủ, có lẽ tuổi học trò quá dễ thương, quá đẹp giúp hắn yêu nghề, và cũng có lẽ bóng dáng “như cánh vạc bay” của cô ấy thuở cắp sách đến trường vẫn cứ ám ảnh hắn, giúp hắn có nghị lực và tình yêu trong nghề nghiệp ? Hắn không dám khẳng định vì lý do gì mà hắn yêu nghề đến vậy.
Hắn cùng các bạn ôn lại cái thời đi học. Nhưng tâm trí hắn như để đâu đâu.
- Thanh, mày làm gì mà đờ đẫn vậy ?
- Đâu có.
Bạn hắn, thằng An, đập vào vai hắn, nói :
- Mơ mơ màng màng thế, mà không có à ?
Cười gượng, hắn nói :
- Tại tau đang tìm ý thơ.
An biết hắn tìm ý thơ để làm gì rồi.
- Uống cà phê đi mày ! Uống rồi hẵn làm thơ !
Được các bạn khích lệ, mừng mừng tủi tủi, hắn đọc bài thơ về thuở học trò, về tình yêu tuổi học trò.Tình yêu tuổi học trò nhẹ nhàng như cánh vạc bay. Bạn bè vỗ tay tán thưởng. Cô ấy cũng vỗ tay tán thưởng.
Tan tiệc, cô ấy đến bên hắn. Cô ấy lặng im. Nhưng hắn nghĩ là cô ấy đang nói với hắn : “Sao khi trước anh không theo em ? Mà thôi ! Giờ thì mỗi người một cảnh. Em không trách anh đâu. Mãi mãi tình yêu thuở học trò vẫn đẹp phải không anh ? Anh biết không, em về nước đợt này là nhằm đầu tư mở nhà máy sản xuất thiết bị điện tử. Em muốn nước mình giàu có lên. Em cũng muốn anh làm thơ nữa !”.
Nhìn ánh mắt cô ấy, hắn đề nghị :
- Mình đi uống cà phê đi em !
- Vâng !
Tiếng nhạc của thuở học trò vẳng ra từ chiếc loa thùng : Gọi nắng trên vai em gầy, đường xa áo bay…
Đối diện hắn không là cô ấy của ngày xưa. Chỉ có dáng dấp của người phụ nữ hơi mập. Hắn hát theo lời bài hát, hát như những lần hắn đàn và hát cho vợ hắn nghe, người vợ có đôi vai gầy thích nghe hắn hát tình ca của thời trai trẻ.
Tháng 7 - 1995
Phan Trang Hy
Trích từ tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
MỘT THOÁNG TÌNH CỜ
Rộn ràng ngày hội. Ánh sáng thiên diệu trải khắp mọi nơi. Thiện nam tín nữ dập dìu du xuân. Từng đôi nam thanh nữ tú hòa vào cảnh trời xuân. Từng gương mặt sáng , từng tiếng chào, từng nụ cười tươi. Lòng người hớn hở. Tất cả trải lòng chào đón cảnh sắc thiên nhiên. Và tôi cũng hòa vào trong không gian - thời gian của lễ hội.
Lòng tôi có tiếng reo vui. Tôi như thấy mọi người ai cũng làm ra vẻ quan trọng, làm như chỉ có mình mới làm cho lễ hội thêm phần rộn rịp. Chung quanh tôi đủ âm thanh. Nào là âm của đôi trai gái rủ rỉ nói tiếng yêu ; nào là âm của những người bán hàng đang chèo kéo khách; nào là tiếng nhạc điện thoại, tiếng gọi điện thoại lấn át cả tiếng mõ, tiếng chuông, tiếng khánh ; nào là tiếng kêu cứu của ai đó đang bị trộm cướp…Tôi tiếp nhận những âm thanh đó như thể rằng mình đang bị tra tấn. Bỗng bên tai tôi có tiếng gọi ngọt ngào. Tôi quay lại nhìn. Ồ thì ra là nàng…
Nàng là bạn học cũ của tôi từ thời trung học. Một thời nàng là đối tượng để các cậu học trò như tôi thành thi sĩ. Lại hiện về trong tôi những lời lẽ ngây ngô, những cử chỉ vụng dại của thời traỉ trẻ…Tôi như đang thẫn thờ ngồi trên bàn học nhìn nàng. Mái tóc nè ! Cổ nè ! Cả tà áo dài trắng của nàng nữa ! Và lời hát của những bản tình ca thời tiền chiến. Ôi, quả là dịu ngọt !
Mới như hôm qua ! Nàng và tôi xa nhau không biết là cái cớ gì ? Mới thôi, mới như tôi vừa ngủ dậy mở mắt nhìn mặt trời lên, mở mắt nhìn trăng hiển hiện ; mới như tôi vừa nghe xong một giai điệu giao hưởng, vừa nghe tiếng kinh cầu. Sao thời gian nhanh thế ? Quá nhanh như những dự tính của con người chẳng thể làm xong khi tóc bắt đầu điểm bạc.
Nàng nhìn tôi cười, tôi cũng nhìn nàng và cười. Chúng tôi không biết nói gì. Nói lại chuyện xưa ư ? Cả hai đều biết cả rồi mà ! Nói chuyện nay ư ? Cả hai đều có chuyện riêng của đời mình, nhưng không gian này, thời gian này làm sao chúng tôi nói cho hết được.
Một sự ngẫu nhiên và định mệnh nào đó cho chúng tôi gặp nhau ? Cuối cùng, tôi chỉ khẽ hỏi : “Bây giờ, bạn thế nào ?” Nàng cười: “Còn anh ?”…Và rồi cả hai chúng tôi như trẻ nhỏ cười vô tư giữa ngày hội : “Chúng ta còn độc thân !”
Chúng tôi vào lễ Phật. Tôi quỳ chắp tay nguyện cầu cho quốc thái dân an. Tôi khấn cho tôi có vợ. Nàng cũng đang quỳ bên tôi. Tôi không biết nàng thầm khấn những gì. Tất cả mùi hương âm sắc ở đây đều toát lên sự trầm mặc, uy nghiêm…Tôi vẫn cứ quỳ và chắp tay trước ngực. Mắt tôi nhắm…Tôi mường tượng Đức Phật trên đài sen. Người trầm mặc, tĩnh lự trước lời khẩn cầu của tôi.
Đức Phật trên đài sen như đang biến hóa trong tâm tưởng tôi. Lúc là tôi. Lúc là nàng. Lúc là này. Lúc là nọ…Và cuối cùng tôi như thấy chính tôi…Tôi mở mắt.
Đức Phật trên đài sen vẫn tĩnh lự. Nàng không còn bên tôi. Chỉ còn tôi !
Phan Trang Hy
Trích từ tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
BỘ ÓC RÔ-BÔ
Không ai biết ông ta tên thật là gì. Người ta gọi danh ông ta dựa vào tấm quảng cáo treo ở góc đường. Nhà Đại Tiến Sĩ - đó là biệt danh của ông ta. Khắp xứ đều nhắc tới tên ông như một vị anh hùng của thời đại với chiến công hiển hách chưa từng có trên thương trường từ trước đến nay. Các buổi tiệc tùng của chính quyền đều mời ông ta tới dự, bởi vì hai phần ba ngân khoản dành chiêu đãi là do lòng hảo tâm của ông ta đóng góp. Các quỹ bảo trợ xã hội đều có phần ông ta tài trợ. Nói chung, ông ta là “Mạnh thường quân” đáng mặt để mọi người học tập.
Người ta không thể đoán biết vốn liếng kinh doanh của ông ta là bao nhiêu. Nhiều tin đồn đại, có thể vốn ông ta khoảng một thùng phuy vàng là ít. Ông ta bắt đầu phất khi nền kinh tế của xã hội chuyển sang sự cạnh tranh của cơ chế thị trường. Quả thật bộ óc ăn nên làm ra như thế thật là hiếm, thật là mẫu điển hình để mọi người ham có vàng phải bắt chước.
Ông ta về thành phố này cách đây vài năm. Món hàng kinh doanh của ông ta thật là lạ : Kinh doanh óc. Nó cũng kì lạ như con người của ông ta. Đầu ông ta là một khối vuông nhỏ xíu được gắn trên cơ thể lập phương. Chưa hết, mọi vật ông ta sử dụng đều vuông vắn đến cỡ nếu dùng thước đo có sai số một trên một triệu cũng không tìm ra độ chênh lệch. Và điều kì lạ hơn nữa, mặc dù ở độ tuổi năm mươi, ông ta vẫn còn trinh trắng.
Nhiều cô gái đẹp ngấp nghé muốn thân trao phận gửi cho ông ta nhằm kiếm nơi yên phận cái kiếp làm đàn bà, nhưng ông ta nhìn các ả bằng cặp mắt dửng dưng. Nhiều người cho ông ta khó tính. Nhưng điều đó trái ngược với bản chất của ông. Tới một con rắn hổ mang, ông cũng không dám xuống tay hạ sát khi nó leo lên người và liếm vào môi ông. Ông chỉ cười với nó. Và rồi khi thấy ông bị lâm nguy, các nhân viên giúp việc cho ông phải tìm gậy gộc để đánh chết con rắn. Hú hồn, hú vía, may cho nhà Đại Tiến Sĩ không hề hấn việc gì. Ông cũng chỉ cười khi thịt rắn trở thành món nhậu cho đám nhân viên. Bữa tiệc chiến thắng rắn, ông hào phóng xuất tiền để mua thêm thức ăn và nước để uống.
Và rồi, cả xứ đều xôn xao khi đọc mục quảng cáo nhắn tin trên tờ báo Kim Tiền : Nhà Đại Tiến Sĩ - chuyên kinh doanh các loại óc văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ, nghệ sĩ, bác sĩ, kĩ sư, luật sư, bác học - muốn tìm vợ tuổi khoảng 15 đến 25. Ai muốn làm vợ Đại Tiến Sĩ hãy nộp đơn đăng kí từ ngày 1 tháng Giêng đến ngày 31 tháng Chạp năm nay. Mọi thủ tục xin liên hệ tại văn phòng của Đại Tiến Sĩ số 666, Đại lộ 13.
- Ôi ! Ông Đại Tiến Sĩ chuẩn bị lấy vợ. Tuyệt thật !
- Ôi ! Ngài Đại Tiến Sĩ sẽ có vợ. Chắc chắn đất nước này còn duy trì được gien của những người tài.
- Ông ta lấy vợ thật à ?
- Đây nè ! Đọc kĩ thì rõ ! Thật là phước đức cho nòi giống chúng ta…
Cứ thế, một đồn mười, mười đồn trăm, đồn theo cấp số nhân. Cả làng cả nước chờ đón tin mừng Đại Tiến Sĩ kén vợ.
*
Việc định lại biên chế cho tờ báo Kim Tiền làm nát óc chủ nhiệm kiêm chủ bút. Để phóng viên, biên tập viên nào ở lại công tác, cho người nào về. Khi cần thì nhận, khi không cần thì thải sao ? Nhưng đã hạch toán kinh tế thì phải sòng phẳng, phải tính công sức của từng người để chi trả lương. Mà ở cơ quan này tính đi tính lại thừa 12 người trong tổng số 21 người. Giảm biên chế những trên 50%. Không lẽ chủ nhiệm kiêm chủ bút Thức Thời phải về vườn. Không lẽ Nữ Sĩ, người yêu trẻ của ông ta, phóng viên trẻ nhất trong số nữ phải nghỉ việc ?
Ông ngồi thừ trước bàn làm việc. Nữ Sĩ vai mang xách chạy vào cười nũng nịu với ông :
- Nè anh ! Tối nay chúng mình đi khiêu vũ nhé ?
Ông im lặng.
- Chiều em một tí đi nào ! - Nữ Sĩ quàng vai ông, tựa má sát vào hàm râu đen rậm của ông.
- Anh bực muốn chết được !
- Chuyện gì mà bực ? Ai làm anh bực ? Ai qua mặt được anh ở cơ quan này ? - Nữ Sĩ hét toáng lên khi buông tay ra khỏi con người ông…
- Thì chuyện giảm biên chế đó ! - Ông vừa nói vừa thở dài.
- Hơi đâu anh lo cho mệt xác. Không lẽ anh không giữ được em ở lại làm việc sao ? Hơi sức đâu anh nghĩ thế. Ai lo cho mình cái ăn cái mặc. Đời này không đạp nhau thì làm sao sống nổi ? - Nữ Sĩ vừa nói vừa khoanh tay, ngước mắt nhìn cái quạt trần đang quay chậm rãi - Anh không đạp họ thì anh có chỗ để đứng không ? Anh và em chết đói trước hay họ chết đói trước ? Tùy anh !
*
Đã hơn sáu tháng mà Đại Tiến Sĩ vẫn chưa kén được vợ cho nên mục quảng cáo nhắn tin phải in đi in lại nhiều lần trên báo kèm theo ảnh toàn thân của ông ta để các cô gái lượng sức nộp đơn đăng kí . Bên cạnh đó, báo cũng giới thiệu một phần tài sản của ông ta. Mục giới thiệu tài sản gồm có một số nội dung chính như sau : Ngài Đại Tiến Sĩ làm chủ một cao ốc trên 1000m2. Trang bị 5 karaôkê ở phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ, phòng tắm và cầu tiêu. Có 2 xe hơi kiểu tiên tiến nhất của Nhật Bổn còn chờ người lái v.v… và v.v… Nếu đọc hết nội dung đó, có thể chúng ta choáng ngợp trong số tài sản đó.
Mọi lo âu đều hiện trên gương mặt của những người chăm chú vào thời cuộc. Ngài Đại Tiến Sĩ sẽ chọn ai trong 6 tháng cuối năm để làm vợ. Người ta bàn bạc, kháo nhau và cá độ về đường tình duyên của Đại Tiến Sĩ.
*
Người yêu của Đại Tiến Sĩ là Nữ Sĩ. Nàng thường cặp kè bên cạnh ông, trở thành thư kí riêng cho ông. Sau khi bàn bạc với chủ nhiệm tờ báo Kim Tiền, nàng đã đăng tin : “Nữ Sĩ, phóng viên tờ Kim Tiền, tuổi 24, đẹp, dễ thương, cần tìm chồng khoảng 50 tuổi, giàu có…” Nhờ tin ấy, nàng cùng Đại Tiến Sĩ trở thành đôi tình nhân tuyệt vời. Mọi bí mật làm ăn của Đại Tiến Sĩ nàng hầu như biết gần hết. Nhân viên khi gặp nàng đều bẩm thưa “bà chủ”. Thế nhưng, họ vẫn chưa làm lễ cưới. Họ đợi đến gần tiết Tiểu Hàn sẽ tổ chức vì khí hậu hợp với chuyện ăn nằm. Còn khoảng 25 ngày nữa mới đến thời điểm làm lễ động phòng hoa chúc.
Gần đến ngày cưới, một hội nghị khoa học kinh tế được tổ chức dưới sự bảo trợ của Viện Hàn lâm khoa học, có các đại trí thức của thời đại tham dự để nghe Đại Tiến Sĩ báo cáo tham luận kế hoạch kinh tế một thiên niên kỉ tới. Bản tham luận của Đại Tiến Sĩ dày trên ba ngàn trang in. Ông ta đã bỏ vốn ra in trên triệu bản phát trước cho các nước có tham dự hội nghị và ông ta dự tính bỏ ra một số tiền thù lao cho những vị chịu đến tham dự Hội nghị để nghe ông ta đọc tham luận. Cứ một trang in, ông sẽ chi trả cho mỗi người nghe một đô la. Vị chi, một người ngồi nghe tham luận, ông sẽ chi trả trên ngàn đô la. Mọi người đều phấn khởi mong đến ngày Hội nghị khai mạc.
Dù bận bịu với công việc sắp đến của Hội nghị, Đại Tiến Sĩ vẫn không quên ngày cưới của ông ta sẽ tổ chức một tuần lễ sau đó. Ông dành thời gian rảnh rỗi đưa Nữ Sĩ giải trí sau những giờ làm việc căng thẳng.
Cơ sở làm ăn của ông, nàng đều biết và quen thuộc cả. Ngoại trừ trại cấy giống lấy óc, nàng chưa một lần ghé thăm. Nàng ao ước được đến đó. Nàng đã rủ rỉ bên tai Đại Tiến Sĩ. Cuối cùng, ông ta bằng lòng dẫn nàng đến trại.
Một buổi sáng đẹp trời, cả hai đáp phi cơ trực thăng đến trại giống. Sau khi các nhân viên ở trại làm thủ tục chào đón ông chủ và vị hôn thê của ông ta xong, họ đâu vào đấy trở lại vị trí làm bổn phận của mình. Đại Tiến Sĩ dẫn Nữ Sĩ đi từng lán trại để nàng tham quan. Hàng đàn khỉ được nhốt trong các chuồng trại. Nàng ngợp với quang cảnh kì lạ của khỉ. Tới một chuồng khỉ, Đại Tiến Sĩ khoe với Nữ Sĩ :
- Đây là chuồng nuôi óc kinh tế. Ai mua óc của lũ khỉ này sẽ ăn nên làm ra.
Nữ Sĩ trố mắt nhìn từng con khỉ đang học cách mua bán. Từng chỉ vàng, từng lượng vàng được chúng chuyền nhau. Chúng ngửi, thè lưỡi liếm, chúng giấu vào tai, vào háng, vào hậu môn…
Qua khỏi chuồng kinh tế, trước mắt Nữ Sĩ một chuồng khỉ có đầy đủ các nhạc cụ. Nào là pianô, viôlông, ghi ta, măngđôlin v,v…được các con khỉ đang chơi những bản nhạc tuyệt vời của Bêthôven, Môda…
Nàng sửng người lắng nghe những âm thanh kì vĩ. Một cái đập vai nhẹ nhàng làm nàng giật mình. Đại Tiến Sĩ cười nói :
- Em thấy lạ lắm hả ? Đây là chuồng nuôi óc nhạc sĩ. Chính những con khỉ này sẽ cung cấp óc cho các nhạc sĩ đại tài trong tương lai…
Chưa hết, nàng được Đại Tiến Sĩ dẫn thăm các chuồng trại, cả thảy 33 chuồng, đủ mọi ngành nghề, đủ mọi tri thức và đều có thể bán ra thị trường dưới dạng óc.
*
Trong hội trường đông nghẹt người chờ đón Đại Tiến Sĩ đọc tham luận. Gần đến 11 giờ mới đến phiên ngài. Ngài bệ vệ tiến lên bục diễn thuyết. Pháo tay vang lên như sấm dậy tưởng bay trần ximăng ở trên đầu. Không có việc gì xảy ra cả. Chỉ có sự hoan hô nồng nhiệt.
Khi ngài Đại Tiến Sĩ cất giọng như catxet, cả hội trường im phăng phắc. Ngài say sưa đọc. Các phóng viên chụp ảnh, quay phim lia lịa.
12 giờ, ngài Đại Tiến Sĩ đọc đến trang 101.
12 giờ 30, ngài đọc đến trang 162.
13 giờ, ngài đọc đến trang 222.
14 giờ 30, ngài đọc đến trang 402. Cả hội trường không có một tiếng thở để nghe ngài đọc.
14 giờ 32, ngoài căng tin, mọi người đang kháo nhau sẽ sắm được những gì qua đợt Hội nghị này bởi đồng tiền hào hiệp của Đại Tiến Sĩ.
14 giờ 36 phút, ngài Đại Tiến Sĩ vẫn đọc.
15 giờ, ngài vẫn đọc. Và mọi người ở căng tin đang say mèm, nằm dài trên sàn nhà, trên cả lối đi và kể cả nơi vệ sinh.
15 giờ 10 phút, ngài Đại Tiến Sĩ vẫn say sưa đọc.
*
Hai ngày sau, tờ báo Kim Tiền phát một tin giật mạch máu :
“Lúc 15 giờ 20 phút ngày 25-12-…, ngài Đại Tiến Sĩ đã đột ngột xỉu khi đọc tham luận. Các bác sĩ đã tận tình cứu chữa, nhưng vì tuổi cao, sức cạn, Ngài đã từ trần, hưởng 52 tuổi”.
Và trong tờ báo này cũng đăng tin cuộc giải phẫu bộ óc kì vĩ của Đại Tiến Sĩ, nguyên văn như sau :
“Sau khi tiến hành phẫu thuật bộ óc của Đại Tiến Sĩ, các bác sĩ, tiến sĩ, bác học trên thế giới vẫn không xác định óc của Ngài thuộc chủng loại nào vì không có não bộ. Và sau khi làm việc suốt 24 giờ liền, máy vi tính đã xác định : óc Ngài Đại Tiến Sĩ thuộc chủng loại rôbô ra đời cách đây 4 tỉ năm”.
1991
Phan Trang Hy
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
ĐAU ĐÁU HOÀNG SA
Kính tặng các chiến sĩ Hoàng Sa, Trường Sa…
Lệ thường, ngày nào cũng vậy, lão Ban lại ra biển. Không nhìn thấy biển là lão cảm thấy sao sao ấy. Lão dễ nổi cáu với vợ. Chỉ cần nhìn thấy biển, nhìn ra ngoài khơi xa là lão mới dịu đi những cáu ghét của cuộc đời. Lão đi biển không phải để nhìn thiên hạ tắm, không phải tập thể dục dưỡng sinh, cũng không phải bông lơn chọc ghẹo những mụ hồi xuân. Lão nhìn biển như thể cho vơi bớt nỗi lòng của mình, khi chẳng biết tỏ cùng ai. Thường là lão đi một mình. Nhưng lần này lại khác. Lão cùng thằng cháu nội ra biển chơi.
Nhìn thằng cháu đang lượm những vỏ ốc, vỏ sò, những con sao biển, lão thấy hồn mình như nhập vào sóng biển. Vẫn tiếng sóng vỗ bờ, vẫn tiếng rì rào của đại dương, của hồn biển Đông muôn thuở. Vẫn đâu đây từ cõi sơ khai nước mặn, trời nồng. Bỗng thằng Phong - thằng cháu nội của lão - lên tiếng :
- Nội ơi ! Nội coi nè ! Vỏ ốc này đẹp quá, nội ơi ! - Vừa nói, nó vừa chạy tới khoe lão.
- Ừ ! Đẹp quá !- Lão khẽ nói.
Nhìn vỏ ốc trên tay thằng Phong, lão lại nhớ cái vỏ ốc mà lão đã tặng cho Vũ - ba của thằng Phong. Quá khứ ấy như hiện ra trước mắt …
Lão làm sao quên được cái ngày lão được nghỉ phép về thăm gia đình ở Đà Nẵng. Được trở về đất liền, được thăm vợ, thăm con - thăm cái thằng con trai, cái thằng con mà lão chưa biết mặt, lão cảm thấy sao quá tuyệt vời. Nằm thao thức, nghe sóng, gió mang vị mặn trong đêm, lão không ngủ được. Ngày mai là có tàu vào đất liền. Mừng thật ! Vui thật ! Nghĩ đến vợ con, lão lục tìm trong đầu nên tặng vợ, tặng con những gì ? Ở trên quần đảo này có gì ngoài phân chim, cát vàng, san hô, ốc biển…Tặng gì đây cho vợ, cho con ?
Vừa về đến nhà, lão chào mọi người. Vợ lão ôm chặt lão, khóc : “Sao anh không ở ngoài đó ? Anh về làm gì ?”. Lão biết vợ quá thương mình nên nói vậy thôi. Chính vợ lão đã khuyên lão ra đảo nhận công tác khí tượng kia mà.
Nhìn thằng Vũ nằm trên nôi, lão giơ hai tay ra, vừa vỗ vỗ vừa kêu lên : “Ba đây con ! Cho ba bồng tí !”. Thằng Vũ nằm trong nôi khóc ré lên. Thương con, lão muốn bồng con, ôm con. Nhưng mỗi lần lão bồng nó thì nó không chịu. Một bữa, vợ lão lo sắm sửa một ít đồ dùng để lão ra lại đảo, bèn giao con cho lão. Thằng Vũ cứ khóc, không chịu cho lão bồng. Lão lấy những thứ đồ chơi bằng nhựa cho nó chơi, nhưng nó vẫn không chịu nín. Cực chẳng đã, lão bồng con và dỗ. Lão kêu kêu, cười cừời ; lão làm đủ trò ; nhưng thằng bé vẫn cứ khóc. Khóc miết rồi cũng mệt. Mệt nên nó nín. Rồi nó đưa mắt nhìn lão, nhìn khắp phòng. Lão thấy mắt thằng bé nhìn các thứ để ở trong tủ gương như muốn khám phá điều gì đấy. Nhìn con, lão lấy làm lạ. Những thứ trong tủ có gì lạ đâu. Toàn san hô, ốc biển…, những thứ lão mang từ đảo về. Lão bồng con đứng trước tủ. Thằng bé cười - lần đầu nó nhoẽn miệng cười. Lão lấy mấy thứ nhỏ xinh cho thằng bé chơi, nhưng nghĩ lại, lão sợ thằng bé chơi, rồi nuốt bậy, nên lão cất. Thằng bé lại khóc. Cuối cùng, lão chọn cho con một con ốc to bằng nắm tay. Đây là con ốc lão lượm trên đảo đúng vào lúc nghe tin vợ ở nhà sinh thằng Vũ. Thằng bé cầm con ốc, ngậm vào miệng ra chiều thích thú.
Kể cũng lạ ! Từ khi chơi với con ốc, thằng bé lại muốn lão bồng, lão bế. Chỉ trừ lúc nó thèm sữa, còn thì nó đòi lão bồng chơi cùng con ốc cho bằng được. Nó cũng thích lão hát cho nó nghe, nó cũng thèm lão hôn nó…
…Lão vẫn nặng nợ với đảo. Đảo là nhà, là phần cuộc sống của lão. Những lúc thương con, nhớ vợ, lão chỉ biết ngồi trên bãi san hô nhìn vào đất liền. Làm sao lão quên được những hoàng hôn. Màu sắc kỳ ảo vàng đỏ tím xanh cả biển. Mặt trời lặn dần xuống biển như thể thiên nhiên đang cất giấu viên ngọc hồng vào trong rương vũ trụ. Chỉ còn thứ ánh sáng diệu kỳ trên biển. Và trong lão sáng lên thứ ánh sáng của đêm, thứ ánh sáng gia đình, quê hương…Lão thèm được nhìn vợ, nhìn con, nhìn những gì thân thương của mình. Lão quên sao được những lần đem thư của con ra đọc. Ngó thế mà thằng Vũ cũng đã lớn rồi. Học lớp 11.Thư gửi cho lão, lúc nào nó cũng nhắc đến con ốc mà lão cho nó. Cũng từng ấy câu chữ, nó cứ viết vào những lá thư gửi cho lão : “Ba biết không ? Bạn bè con, đứa nào cũng trầm trồ vì con có con ốc đẹp. Con đã từng khoe với bọn chúng là con ốc mang cả hình hài của quần đảo Hoàng Sa. Bọn chúng không tin. Nhưng con tin là thế !”.
Lão cũng tin là thế ! Lão tin quần đảo Hoàng Sa là máu thịt của quê hương. Làm sao lão quên được có lần lão đã dắt thằng Vũ về quê ở tận Quảng Ngãi. Trong lần giỗ chạp, ông tộc trưởng họ Đặng của lão đã từng nhắc rằng lão là kẻ hậu sinh đang kế nghiệp tiền nhân. Mở gia phả, lão rưng rưng đọc những dòng chữ ghi công tích của họ Đặng. Vua triều Nguyễn đã từng phái dòng tộc lão vượt đại dương trấn giữ Hoàng Sa. Lão cảm thấy như máu tiền nhân đang chảy trong cơ thể, tăng thêm nghị lực, tăng thêm tình yêu cho lão trên đảo Cát Vàng. Làm sao lão quên được lúc cúng tế, bà con tộc họ đã bỏ thức ăn, sau khi xong lễ, vào một chiếc thuyền làm bằng bẹ chuối, thả xuống biển. Mũi thuyền hướng về Hoàng Sa như thể rằng Hoàng Sa không thể quên trong hồn người đã khuất. Trong tâm tưởng lão, lúc nào chiếc thuyền bẹ chuối ấy cũng lớn như những chiếc thuyền của dòng tộc họ Đặng, họ Trần, họ Lê…ở quê lão vâng lệnh triều đình, tiến thẳng Hoàng Sa…Trong lão như trỗi dậy những bài văn tế các thủy binh thời ấy. Nhận lệnh vua, nặng nợ nước nhà, buổi ra đi đâu dễ dàng. Sóng gió trùng khơi, thủy quái dẫy đầy, đến Hoàng Sa đâu dễ. Các thủy binh được tế sống lúc lên đường như thể rằng quê hương vẫn nặng nợ với những người con. Lão bùi ngùi, run rẩy như có ai đang bóp nghẹt trái tim. Lão khóc…
Và lão đã khóc rất nhiều khi nghe tin thằng Vũ hy sinh trên Trường Sa năm 1988. Lão không ngờ như vậy. Kỷ vật cuối cùng của con lão là quyển nhật ký. Lão đã đọc đi, đọc lại hoài. Những dòng cuối cùng lão như thuộc lòng : “Ba ơi ! Biển đảo là biển đảo của quê hương do cha ông để lại cho con cháu đời sau. Phải giữ để khỏi có tội với tiền nhân, với con cháu. Dẫu có hy sinh, con vẫn không hối tiếc điều gì vì đã thực hiện theo lời ba dạy.”. Đến giờ, lão vẫn không biết mình dạy con điều gì. Lão chỉ nhớ những việc làm, những tình cảm gắn bó với Hoàng Sa. Không biết có phải những điều ấy là lời lão dạy với con ? Có lần thằng Vũ cầm con ốc đố lão - lúc nó vừa thi xong tú tài : “Đố ba, trên mình con ốc này có gì ?”. Lão ngạc nhiên sao con lão đố như vậy. Nhìn con ốc, lão cười đáp : “Thì chỉ những chấm, những chấm màu vàng nâu”. Thằng Vũ cũng cười, nói : “Rứa con đố làm gì !”. Rồi nó chỉ từng cái chấm, hỏi lão có giống những đảo mà lão đã từng ở không, nhiều chấm có phải là quần đảo không…Và rồi nó kết luận : “Trên mình ốc có in hình quần đảo Hoàng Sa”. Kể cũng hay hay. Từ đó, nó để con ốc vào chỗ trang trọng nhất. Khi nhập ngũ, đi bộ đội hải quân, nó xung phong đi Trường Sa. Lão không gàn con. Nó cũng có tình yêu đảo như lão kia mà !
Kể từ ngày thằng Vũ mất, lão như mất hồn. Cứ những đêm rằm, mồng một, lão lại ra biển. Dù nắng, dù mưa, lão vẫn ra biển thắp ba cây nhang hướng về Hoàng Sa, Trường Sa mà vái. Ngoài kia, những con thuyền thả lưới, những chiếc tàu đánh bắt cá sáng rực những ánh đèn như thành phố nổi trên biển. Trước mắt lão hiển hiện những ngư dân cần mẫn, chăm chỉ, chịu khó chịu thương. Trước mắt lão hiện lên những chàng trai giữ đảo, có cả hồn của những người như con trai lão cùng tiền nhân giong thuyền xuôi ngược biển Đông. Nhiều lúc lão lẩm bẩm một mình như đọc thơ về Hoàng Sa…
Và rồi thành phố Đà Nẵng bổ nhiệm Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa. Lòng lão trỗi dậy thứ tình yêu biển đảo mà bấy lâu nay ẩn trong tiềm thức. Người họ Đặng hôm nay lại nối tiếp họ Đặng, họ Trần, họ Lê… ở quê lão, như cái thuở cha ông vâng lệnh triều đình ra đảo, gánh trách nhiệm với Hoàng Sa. Lão thấy mình như trẻ lại, khỏe lại và vui hơn. Không vui sao được khi đất đảo quê hương được nhắc đến ? Không vui sao được khi có người dám nhận trách nhiệm nặng mang ? Lời thằng Vũ trong nhật ký sáng rực trong tâm trí lão : “Biển đảo là biển đảo của quê hương do cha ông để lại cho con cháu đời sau. Phải giữ để khỏi có tội với tiền nhân, với con cháu…”.
Tiếng thằng Phong như đánh thức lão :
- Nội ơi ! Mai con phải vào thành phố Hồ Chí Minh.
- Ở thêm ít ngày, được không ? - Lão hỏi như trách .
- Con phải vào để thầy hướng dẫn làm luận văn .
- Thế thì phải vào thôi ! Mà này, con làm đề tài gì ?
- Dạ ! Con làm đề tài về quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong mối quan hệ với biển Đông.
Trầm ngâm một lúc, lão lên tiếng :
- Gay đó con ! Nhưng phải gắng thôi.
- Dạ ! Con nghe lời nội.
Hai ông cháu cùng dắt tay xuống tắm. Nước biển tắm mát cơ thể lão, cơ thể cháu lão. Nước biển Mỹ Khê giống như nước biển Hoàng Sa. Lão nghe mằn mặn bờ môi. Lão đứng lên. Mặc từng cơn sóng đổ trên người, lão nhìn ra xa khơi. Đau đáu là Hoàng Sa trong nỗi nhớ…
Tháng Năm, 2009
Phan Trang Hy
Trích từ tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
CÕI THIÊN ĐƯỜNG RÁC
Bé Hoa vai mang cái bao, tay cầm chiếc que sắt đang bươi rác từ chiếc xe vừa đổ xuống. Nó đang lượm từng miếng ni lông bỏ vào bao. Ở bãi rác Khánh Sơn này, rác trở thành nguồn sống của một số người, trong đó có gia đình Hoa.
Mặt trời lên cao. Ánh nắng hầm hập từ trên cao đổ xuống. Hoa cảm thấy rát cả lưng. Rác gặp ánh nắng tạo thành thứ mùi ươn ịch. Những người lượm rác như những con kiến đen bâu quanh gò rác, phải hít thở trong không khí tràn ngập rác. Lâu ngày thành quen, và phần phải thích nghi với cuộc sống, họ ăn, ngủ, sinh hoạt cùng với rác. Kể cả những trẻ, trong đó có Hoa phải học đánh vần trong môi trường rác.
Được xã hội quan tâm, Hoa được cấp sách vở, đến lớp tình thương kiếm chút chữ. Nhiều lúc ngồi học, ngửi những trang vở trắng tinh, nó vẫn cảm thấy có một thứ mùi như chỉ dành riêng cho những kẻ lượm rác. Dù mùi mực từ cây bút bi có pha hương thơm của tuổi học trò vẫn không xua tan được mùi rác, kể cả những lúc nó cùng các bạn liên hoan, được ăn bánh kẹo nhân ngày lễ. Mùi rác như hoà lẫn vào mùi bánh kẹo. Mùi rác như quyện vào quần áo và thấm vào da thịt nó.
Nắng vẫn cứ đổ lửa. Hừng hực nóng trên lưng. Nhưng cái bao đựng phế thải như vẫn còn nhẹ trên vai Hoa. Rác càng ngày càng nhiều, nhưng tìm được những thứ bán có tiền từ rác đâu có dễ ! Hoa cặm cụi bươi, tìm và lượm, bỏ vào bao những phế thải có thể bán được.
Nắng vẫn dội xuống đầu nó. Lại bươi, lại bới. Tay nó không nghỉ. Niềm ao ước, hy vọng loé lên từ những phế thải. Đôi tay nó lại bươi, lại bới, lại tìm những ao ước, hy vọng trong rác.
Nắng làm nó mệt nhừ. Nó muốn tìm chỗ để nghỉ. Giữa nắng, trước mắt nó, ẩn hiện và loé sáng những ngôi sao nhấp nháy. Nó ngã qụy trên rác. Nó kêu lên một tiếng rồi lại im bặt. Lưng nó bị một mảnh chai , chảy máu. Nó nằm im trên rác. Nắng rực. Cả bầu trời rực sáng. Nắng tràn ngập quanh nó. Và dưới lưng nó như đầy hoa làm nệm cho nó nằm. Hương thơm ngào ngạt toả quanh người nó. Chưa bao giờ nó nằm được êm lưng và ngửi hương thơm như lần này. Nó như trong cõi thiên đường. Áo quần nó mới thơm. Đồ ăn thức uống toàn là của ngon mà trước đây nó chưa hề thấy. Nó được biết chữ, được đọc sách, được đánh đàn, được thực hành vi tính. Nó được xem múa lân, được cầm lồng đèn chơi tận cung trăng. Nó được dạo chơi trên trời. Quả là nó đang sống trên thiên đường.
Tối về. Hoa lên cơn sốt. Cả da thịt nó hầm hập nóng như thể thân thể nó toả nhiệt trả lại cho đêm cái nóng mà nó hấp thụ từ mặt trời lúc đứng bóng. Cả gia đình bu quanh nó. Nó mê man, ú ớ :
- Gần tới Trung…thu…, ba…mẹ… cho con… cái… lồng…đèn…Cho… con … đi …xem… múa…
Hôm sau nữa, Hoa được tắm rửa sạch sẽ, được mặc bộ quần áo trắng mới. Người nó không còn mùi rác. Trên đầu nó để một chén cơm đầy có cắm đôi đũa với quả trứng gà cùng ngọn đèn dầu leo lắt…
Đèn Trung thu không đến với nó. Múa lân không đến với nó. Nó đang về cõi thiên đường trên bãi rác trong tiếng khóc của những người thân giữa đêm rằm tháng tám.
Hè 2001
Phan Trang Hy
Trích từ tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ
(Kính tặng các thầy cô giáo của tôi)
Tìm kiếm trong các ngăn kéo, đem ra những con búp bê của lũ cháu, lão Giáo xếp từng con một ngồi theo hàng ngang. Giọng lão đầy đam mê:
- Này, các em ! Hôm nay thầy giảng cho các em nghe nguồn gốc của Người.- Lão đằng hắng rồi tiếp lời - Các em yên lặng học bài !
Từng con búp bê ngồi, mở to mắt nghe lời lão. Nhìn chúng, lão mãn nguyện: “Có thế chứ ! Thật là lũ học trò ngoan !”.
Lão là người thầy đã về hưu. Từ khi nghỉ dạy, trong giấc ngủ, lão thường mơ thấy lớp, thấy trường…Lão mơ hồi lão còn sung sức, lão như bay bổng trên bục giảng. Bọn học trò kính lão – một lẽ lão dạy hay.
Lòng yêu nghề cứ bám riết lấy con tim lão để mà hành hạ. Thế mà lão thấy thích khi được khổ đau trong nghề nghiệp. Có lẽ trời định vị ! Lão phải làm tròn thiên chức mà lão đã mang.
Lão nhớ cứ đến ngày Nhà Giáo Việt Nam, các học sinh, các phụ huynh đến nhà tết lão. Niềm tự hào và nỗi xót đau cứa con tim của lão trong ngày ấy. Đêm nằm, lão cười một mình…
Lão biết rằng phụ huynh và học sinh vừa thương vừa phục lão. Nhưng điều ấy đối với lão đâu có phải là quan trọng. Còn thở là lão còn phải làm tròn thiên chức.
Những ngày đầu về hưu, những điều trái tai gai mắt làm cho lão ngứa miệng. Cựa một tí là lão giảng giải, lên lớp. Những lũ học trò ngày nào đâu còn nghe lão dạy. Chỉ có những đứa con của lão chịu số phận làm học trò. Được cái thằng con trai đầu của lão là đứa hiền, nó chịu đựng ngồi im nghe. Nhưng ngặt nỗi, nó không có thời gian dành cho lão lên lớp khi đàn con của nó đang cần nó. Rồi lão đem những sự tích thời tu-huýt-tu-đế để dạy lũ cháu nội. Bọn trẻ rất ít khi rảnh để học những gì lão nói. Chúng còn phải đến nhà trẻ, đến lớp, học vi tính, chơi điện tử…Lời lão không còn ai nghe…Mà có ai rỗi để nghe lão dạy ?...
Niềm vui nghề nghiệp bỗng lóe sáng khi những con búp bê ngồi không chớp mắt, nghe lão giảng :
- Các em biết đấy ! “Nhân chi sơ tính bản thiện”, có nghĩa là tính Người vốn từ gốc thiện mà ra. Cho nên đã là Người thì phải thiện mới hợp đạo.
Nhìn lũ học trò búp bê, mắt lão nhòe…
1995
Phan Trang Hy
(trích từ tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009)
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
BẢNG LẢNG NHƯ HOA MÙA XUÂN
Như lệ thường, gần đến Tết, tôi chạy xe vòng quanh phố. Mọi thứ như đang vươn sức xuân. Mảng tường nhà ai đang được sơn lại. Con phố nhỏ ấm và sáng hơn. Cờ hoa rợp phố như thể đất nước được mùa.
Nhìn người ta mua sắm Tết cũng là điều thú vị với tôi. Tưởng chừng như tôi đang sắm Tết. Nào là kẹo mứt ; nào là bánh chưng, bánh tét ; nào là chả giò ; nào là mọi thứ… Hàng hóa như theo người về nhà vui Tết. Một chút rượu làm hân hoan mọi nỗi lòng trong năm mới ; một chút hạt dưa làm hồng môi ngọt của ai ; và cả một chút tờ báo xuấn trải lòng người cùng Tết …
Tôi gửi xe và vào chợ hoa xuân. Đầy hoa ! Hoa ngợp trước mắt tôi. Ngày thường dễ gì thấy hoa như thế ! Ước gì trên những con đường lớn Đà Nẵng cũng có hoa đẹp quanh năm ! Chỉ toàn là cái đẹp, toàn sự tốt lành đang ẩn hiện trên mỗi loài hoa, ai mà chẳng thích ?
Tết đến mà có một chậu mai chưng thiệt là tuyệt ! Và tôi cố tìm cho được một chậu vừa ý mà lại vừa túi tiền. Có mai, căn nhà như sáng thêm lên, như mùa xuân ngập cả nhà. Vợ chồng con cái gắn chặt nhau hơn trong những lần mai nở. Và bè bạn nói những điều tốt đẹp cho nhau khi Tết đến xuân về. Dại gì ta nói xấu nhau ! Sao ta không nói tốt về nhau, nếu được ?
Đang chú mục vào môt chậu mai, đang thưởng thức để tìm thêm cái đẹp, cái tốt trong mai để đem về còn khoe với vợ con, bằng hữu. Bỗng nhiên, có cái vỗ vai của ai đó làm tôi giật mình . Quay lại nhìn, tôi ngờ ngợ thấy gương mặt quen quen. Ấp úng, tôi hỏi : “ Ông … Ông là ..? ”. Người đàn ông giờ đối diện với tôi cũng ấp úng : “ Xin lỗi có phải … Ông là ...”. Tôi thấy quen quá, nên nói luôn : “ Tôi là An ”. Người đàn ông nói : “Tôi là Thanh, bạn cũ của ông đây!”. Hai chúng tôi mừng nhau không thể tả .
Chúng tôi tìm một quán nước gần đó để trò chuyện. Tôi được biết Thanh từ thành phố Hồ Chí Minh về quê ăn tết. Hắn ta – tôi phải gọi như thế để nhớ lại cái thuở còn thanh niên – về quê lần này tiện thể vừa để tìm người yêu cũ. Gần 20 năm mà hắn vẫn không quên cô ấy dù đã cả hai đã có gia đình. Hắn chỉ cười buồn và trải lòng cho tôi nghe.
… Kể từ dạo ấy, cái thưở hai đứa hắn cảm lòng nhau. Lòng của hắn như có kiến đốt. Hắn ăn cũng không ngon, hắn cười cũng chưa hết cở. Nói tương tư thì không đúng lắm, hắn chưa đến nỗi phải nằm liệt gường bởi yêu. Vả lại, yêu mà bị bệnh thì ai dám yêu. Yêu như thế quả là khổ sở. Mỗi lần ra đường, đầu óc hắn vẩn vẩn vơ vơ. Ngó thấy ai có cái dáng dấp của cô ấy thì hắn mừng, tưởng như là gặp cô ấy. Nhiều khi buồn, hắn bâng quơ lấy xe chạy vòng vòng khắp phố, không biết là chạy đi đâu. Hắn chạy xe qua nhà cô ấy bao nhiêu lần, hắn cũng không nhớ hết. Mỗi lần như thế, hắn đều ước ao gặp cô ấy. Điều ước ấy có lúc xảy ra nhưng là những lúc tình cờ. Tình cờ mà gặp nhau, còn cố tình cũng chưa thể gặp nhau, âu đó cũng là cơ duyên, hắn nghĩ vậy. Và chuyện của hắn, ban đầu cũng là sự tình cờ của những lời bông đùa, như ngọn gió bỡn cợt trên cành hoa xuân, như ngọn nắng đùa trên cỏ, như cánh diều bâng khuâng treo gió trên nắng mùa xuân và như sự bông đùa của gái trai muôn thuở. Nhưng rồi, như sự ngẫu nhiên của trái tim, của sự chân thành, chúng đã yêu nhau. Yêu nhau thôi, yêu nhau tha thiết, yêu bằng cả ngôn ngữ của tình yêu, yêu bằng mắt bằng lời, bằng cả nỗi lòng thơ ca của chúng. Kể cũng lạ, bình thường hắn ít viết, viết không nổi một câu thơ, thế mà khi chúng yêu nhau thì không biết cớ sao, hắn lại làm thơ, làm rất nhiều thơ, mà bài nào cũng được. Lần đầu tiên cô ấy đọc thơ hắn, cô ấy chỉ cười, nụ cười bây giờ hắn vẫn còn có cảm giác ngọt lịm. Còn gì đẹp bằng khi có kẻ tri âm, tri kỷ. Và mặc nhiên chúng coi nhau là tri kỷ, tri âm .
Không biết sao hắn biết cả tên cha, tên mẹ, tên em trai, em gái của cô ấy, biết cả số nhà, số điện thoại. Và cô ấy biết hắn thích gì. Kể cả chuyện riêng tư, cô ấy cũng kể hắn nghe .
Thế nhưng !
Đời mà ! Biết bao sự “thế nhưng” trong cuộc đời này . Chúng yêu nhau, quả là vậy ! Thế nhưng chúng vẫn không thể sống cùng nhau. Yêu nhau mà sống đuợc với nhau thì quả là tuyệt rồi ! Thế nhưng, đâu có phải yêu nhau là phải sống với nhau. Nhiều lúc hắn tự an ủi cho riêng mình, như là một sự ru lòng mình yên tĩnh.
Đã 20 năm xa cô ấy. Hắn đếm ngón tay là đã 20 năm ; hắn tặc luỡi là đã 20 năm . Nơi cô ấy ở trước đây giờ đã khác. Người cũng khác, toàn là người lạ. Hắn cảm thấy buồn buồn. Dễ gì gặp cô ấy để khen cô ấy có cái áo đẹp ; dễ gì gặp cô ấy để cả ngày hắn trọn niềm vui. Như một định mệnh, lẽ hợp tan là thường tình của trời đất. Hắn biết cái quy luật ấy, cố nín lặng chịu đựng nỗi nhớ của riêng mình.
Đặt ly cà phê xuống bàn, tôi hỏi hắn:
- Thế ông không yêu vợ ông sao ?
Hắn trố mắt nhìn tôi, chửng hửng:
- Sao không yêu ? Không yêu vợ con thì yêu ai ?
Tôi gặng hỏi :
-Thế sao ông còn nhớ cô ấy ?
Giọng hắn như lạc vào cổ tích :
- Kỉ niệm, ai mà không nhớ ! Vả lại, cái tôi của thằng đàn ông đầy tham lam lắm ông ạ ! Nhất là trong tình yêu ! Có vợ có con rồi mà vẫn muốn có người yêu như là sự khẳng định mình với trần gian này, không biết tôi nói như thế có quá không ?
Im lặng…
Và tôi. Tôi không thể giấu lòng mình. Tôi cũng có vợ có con rồi ; tôi cũng muốn quên “ cô ấy của tôi ”, nhưng đâu dễ gì quên. Chỉ có kẻ vô tình mới không để ý đến nhau, mới dễ quên nhau. Và chỉ có kẻ dửng dưng, đâu cần ai để nhớ !
Tôi nhớ như in, hầu như ngày nào tôi cũng ghé quán cà phê cô ấy. Nắng cũng như mưa, thời tiết dẫu thay đổi nhưng tôi cứ như là đúng hẹn cùng cô ấy. Chỉ có thế thôi mà tôi đã cảm lòng bởi sự chân thành của cô ấy. Rồi, Đà Nẵng chỉnh trang đô thị. Nơi cô ấy bán được giải tỏa để mở rộng đường. Cô ấy không còn bán cà phê, cô ấy chuyển sang làm nghề khác. Tôi không còn cớ để gặp cô ấy. Chỉ còn nỗi nhớ xốn xang. Nhiều lúc đi trên đường, bất chợt, tôi thấy một số xe của ai đó, nếu chỉ cần có một con số hoặc chỉ cần màu xe gần giống xe cô ấy là tôi lại nghĩ đến cô ấy, hoặc nhiều lúc tôi làm thơ, thơ đâu chẳng thấy, chỉ thấy trên giấy tòan là tên cô ấy.
Tôi vẩn vơ nghĩ về cô ấy, nghĩ về tình yêu. Tình yêu cũng như hoa kia. Bạn có thể thích hoa, nhưng đâu có thể đem về nhà tất cả hoa mình thích .
Chỉ cần một cành hoa , nhà bạn cũng Tết rồi !
Tôi bắt tay chào Thanh. Tôi vào chợ hoa xuân. Trên đường về nhà, trên xe, một chậu mai vàng cùng tôi chào đón mùa xuân .
Tháng Giêng - 2009
Phan Trang Hy
Trích từ tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009
Truyện của Phan Trang Hy
CƠN MƠ BIỂN
1. Chiều về. Trên bãi biển vẫn còn đông người, sự nóng bức của thời tiết làm cho con người tụ về vùng biển. Bữa cơm tối, chắc họ sẽ ngọn miệng hơn. Các người dân chài không đi biển. Họ ngồi nhìn sóng nước xa xa đoán từng luồng cá. Một số người cặm cụi vá lại những mảng lưới để chuẩn bị ra khơi.
Hoàng đang ngồi vá lưới. Từng con người đi qua trước mắt Hoàng. Ở họ có đủ màu sắc, hương vị của cuộc đời. Ở họ có sự thảnh thơi, hạnh phúc. Nhiều lần, Hoàng ao uớc chút hạnh phúc bé nhỏ đến với mình, nhưng anh đã để mất nó. Mất vì sao, đến bây giờ, anh vẫn chưa lý giải được. Anh chỉ biết rằng hạnh phúc nhỏ bé ấy đã tuột khỏi như những lần anh đánh bắt cá, những con cá tưởng sẽ được, thế mà, chúng lại quen màu lưới, sắc lưới, hương vị lưới và chúng lẫn tránh để khỏi rơi vào cái chết . Dẫu Hoàng có nhảy ùa xuống biển để bắt chúng, nhưng anh sẽ chẳng bao giờ bắt được, vì cá kia, trong lòng biển, cá thật sự tự do vùng vẫy theo sự sống còn mà Tạo hoá đã dành cho.
Âm thanh của biển cứ vang vọng một cách kỳ diệu, sống động không bao giờ dứt. Nhiều lần, Hoàng lang thang trên bãi biển sau những ngày ra khơi đánh cá. Hoàng đi một mình, thích đi một mình để đếm bước chân mình. Cứ đi và đi. Sóng biển cứ đổ vào bờ theo nhịp đếm của từng bước chân. Hết đi lang thang, Hoàng lại đăm chiêu nhìn ra biển như để khám phá sự kỳ diệu của biển. Hiền hoà, hung dữ, bình thản, sống động, yên lành, nổi sóng … Là biển chăng ? Không cây trái, không bướm lượn ong bay, biển vẫn cung cấp đầy đủ cho con người yêu biển những gì nó có .
Hoàng đứng dậy sau khi vá xong mảng lưới. Những tay chài đang ngồi hút thuốc, nói chuyện tôm cá. Cuộc đời của họ thật bình dị. Họ không mơ ước gì hơn là được mùa cá. Hoàng đâu quên những ngày mùa, cá về đầy ắp. Nục, trích, phèn, cơm … Đủ loại. Tất cả đều lấp lánh sáng dưới trời đêm. Hàng chục quang gánh gánh cá thoăn thoắt. Các cô gái cười nói luôn miệng. Nhìn Hoàng, nói những câu liên thoắng, các cô khúc khích cười như vỡ vầng trăng non .
Sống ở vùng biền từ nhỏ đến giờ, trước mắt Hoàng, các cô gái đôi lúc làm anh rung động, sự rung động của người đàn ông trước vẻ hấp dẫn của biển. Dẫu rằng một ngày kia, các cô có con, da thịt không còn đầy hơi xuân biển, trên gương mặt đầy vết chân chim hải âu, nhưng chắc chắn rằng con cháu của các cô sẽ đẹp hơn các cô thời con gái.
- Hoàng ! Vá lưới xong rồi hả? Lại đây hút thuốc ! - Tiếng của Hân, người bạn thân của Hoàng.
Hoàng nhập vào đám dân chài. Họ bàn công việc cho những ngày đến. Ngày mai luôn luôn là những ngày thôi thúc họ. Ngày mai là tương lai của cuộc đời họ.
Đám dân chài chia tay nhau. Chỉ còn lại Hoàng và Hân tựa lưng vào chiếc thúng chai nhìn ra biển .
- Bao giờ mày tính chuyện lấy vợ? Không lẽ nhớ hoài Loan sao ? – Hân nói với tất cả lòng của người bạn thân chân thành - Mày thấy con Giang, em gái tau có được không ? Nó yêu mày thật tình đó. Tau cũng muốn có thằng em như mày. Ý mày sao ?
Hoàng chỉ im lặng. Người tắm càng lúc càng đông. Tiếng người, tiếng biển rộn ràng. Một lát sau, Hoàng lên tiếng :
- Thôi đừng nói chuyện vợ con nữa ! Cậu lo xăng dầu, kiểm tra lại máy móc chưa ? Bác ở nhà còn ốm, đội mình còn mười ba người có đủ sức để ra khơi không ? Mình lo ghê .
Hoàng uể oải bước vào nhà. Nhìn vẻ mặt buồn xo của Hoàng, mẹ Hoàng hỏi:
- Có việc gì thế con ?
- Không có việc gì, mẹ đừng có hỏi – Anh trả lời bực dọc .
- Mẹ dọn cơm con ăn nghe.
Ngồi nhìn Hoàng ăn cơm, bà e dè nói :
- Chuyện vợ con , con tính giùm mẹ, chứ con.
Hoàng vẫn gằm mặt ăn cơm. Anh không biết phải nói gì với mẹ cả. Mẹ chắc sẽ buồn khi anh trả lời không . Anh ngại nói tiếng không đó. Nó bất nhẫn! Nó tàn tệ ! Thôi thì im lặng vẫn hơn .
- Mẹ thấy con Giang nết na, được đó. Có ưng thì mẹ nhờ người đi hỏi.
Hoàng vẫn im lặng, giọng mẹ buồn buồn :
- Thế thì con đợi mẹ chết rồi mới lấy vợ sao ? Mẹ sống đến ngày thấy cháu nội được không ? Nếu Trời Phật thương tình cho mẹ sống lâu thì mẹ chiều ý con, lấy vợ hay không là tuỳ con, mẹ đâu có quyết được .
Hoàng ngồi trơ ra. Anh không dám nhìn mẹ. Anh thầm nhủ : “Mẹ ơi. Mẹ có hiểu lòng con không nào ? Con nào dám trái ý mẹ. Nhưng mẹ ơi, con chưa một mảy may yêu Giang thì làm sao con lấy làm vợ. Con biết mẹ buồn khi con chưa chịu lấy vợ. Con có lỗi với mẹ nhiều. Mẹ tha lỗi cho con, nghe mẹ”.
Căn nhà buồn hơn . Họ không nói gì với nhau nữa. Mẹ Hoàng đã dọn mâm xuống. Hoàng đi nằm. Anh vẫn vơ nghĩ suy. Anh thiếp đi trong suy nghĩ vẩn vơ. Nó kia , cô gái anh yêu kia kìa. Nó đẹp như tiên đang vẫy gọi anh đến với nó. Ôi, nụ cười của nó, nụ cười lạ lùng lôi cuốn trái tim anh ra khỏi lồng ngực, nụ cuời làm lạnh toát cơ thể anh. Ôi, nụ cuời của cô gái anh yêu . Ôi, nó đẹp làm sao. Nó dịu dàng với anh. Anh tiếc sao chẳng lấy được nó… Có lẽ bây giờ, nó trở về với anh, trở về yêu anh như ngày đi học ? Không ! Nó đã có chồng con rồi. Nó yêu anh gì nữa. Chắc là anh yêu nó nên cứ ngỡ là nó yêu anh. Anh réo gọi : “ Em hãy đợi anh đến cùng em ! Hãy nói một lời với anh đi !”.
Người con gái trả lời : “Ta không yêu mi đâu. Mi tưởng là tình yêu chỉ là lời nói trống không ư ? Hỡi chàng trai trẻ, ngươi lầm rồi ! Đời ngươi có gì nào ? Chỉ có biển cả mênh mông, chỉ là anh ngư dân quèn mà đòi lấy ta à ?”.
Anh thốt lên : “ Hỡi em yêu ! Một thời chúng ta từng yêu nhau kia mà!”.
“ Không ! Bây giờ ta không yêu ngươi. Chuyện một thời mà ngươi nói là con bé học trò nào đó yêu ngươi. Nó yêu ngươi một cách trong trắng, ngây thơ. Một cô bé học trò thương yêu một câu học trò điều đó có gì lạ đâu. Lúc đó, chúng có tính toán gì với nhau đâu ngoài những ước mơ viễn vông. Bây giờ khác rồi. Phụ nữ không dại khờ như cô bé học trò đâu” .
“Thế em không yêu anh ư? Những lời ngày xưa em nói với anh đâu rồi?”.
Cô gái cười thành tiếng : “Đã mất rồi ! Đã thành quá khứ rồi ! Những gì đã qua, như tiền bạc, tiêu hết rồi thì còn làm sao được. Lời học trò, chúng ta đã tiêu pha trong tuổi học trò thì làm sao còn được. Tất cả chỉ là dư âm. Mà dư âm có nuôi lũ chúng ta một ngày nào đâu, hay chỉ làm chúng ta dằn vặt, khổ sở, lo lắng, để rồi cứ tưởng nó là tình yêu, là lẽ sống.”
Anh van lơn : “Hãy nói một lời yêu anh đi !”.
Cô gái cười to : “Ha ha… Ta nói yêu ngươi, nhưng ta không yêu ngươi thì đã sao nào ? Ta có tiếc gì lời nói với ngươi đâu, nhưng ngươi làm những gì qua lời nói đó”.
Giọng anh rên rỉ : “Anh sẽ dâng hiến cả cuộc đời anh”.
Cô gái mỉa mai : “ Dễ thế sao? Ha ha … Biết bao chàng trai đã hứa như vậy với các cô gái. Nhưng kết quả thế nào ? Hỡi Thượng Đế, hỡi Sa Tăng vạn năng ! Các người có thấy loài người khờ đến thế nào không ? Họ thích nghe những lời yêu thương ve vuốt, thích mơn trớn, thích thỏa mãn. Hỡi Thượng Đế , hỡi Sa Tăng ! Ai tạo ra làng tham của con người thế ?”.
Anh khẩn cầu : “ Em hãy nói một lời yêu anh đi !”.
Cô gái đáp : “Được thôi ! Nhưng để làm gì, hỡi chàng trai trẻ ?”.
Anh cười mãn nguyện : “Để khi nhắm mắt từ giã cõi đời này anh cũng vui lòng vì có người nói tiếng yêu mình”.
Giọng cô gái chấn động cả sáu tầng trời : “ Ha ha …”.
Anh van lơn : “Hãy nói đi em !”.
Cả ba mươi sáu tầng trời và bảy mươi hai quả đất như mất lực vận chuyển trước giọng cười của cô gái : “Được. Hãy lắng tai mà nghe ta nói. Ta yêu ngươi !”.
Giọng anh náo nức, nhảy cỡn trong vòng chấn động rung chuyển của vũ trụ : “Em yêu anh ư ? Em lại đây với anh ! Lại đây với anh ! Anh chờ em biết bao ngày rồi. Lại đây với anh, hỡi người ngọc, người ngà của anh”.
Bỗng anh thét lên khủng khiếp : “ Ối ! Tôi chết mất.”.
Mẹ Hoàng đang lúi húi rửa chén, nghe tiếng thét của con trai, bà vội chạy lên nhà trên. Trước mắt bà, Hoàng đang nằm dưới đất ú ớ, quằn quại trong cơn mê sảng. Bà luýnh quýnh lay goị Hoàng. Vẫn không có tiếng trả lời ngoài tiếng ú ớ . Bà hoảng quá, hét to :
-Bớ làng ! Bớ làng ! Con tôi chết mất ! Con tôi chết mất !
Nghe tiếng la làng, hàng xóm chạy đến chật cả nhà . Mọi người không hiểu duyên cớ ra sao cả, lời ra tiếng vào, không phân biệt ai đúng ai sai khi nhận xét về căn bệnh của Hoàng. Hân cũng chạy đến. Anh bế Hoàng đặt ngay ngắn trên giường. Nhìn vẻ mặt của Hoàng, Hân thấy bạn không sinh khí, tưởng chừng hơi yếu ớt trên của miệng Hoàng cũng không phải là của Hoàng, mà đó là hơi thở từ cõi xa xăm nào đó. Hân nói to với mọi người :
- Chắc nó trúng gió thôi ! Khi sáng còn khoẻ mạnh mà. Ai có hộp dầu cho tôi xin tí nào !
Giang cũng chạy đến, khi nghe anh mình nói thế cô vội vàng đưa hộp dầu. Hân vội mở nắp, quẹt dầu thoa vào hai thái dương của Hoàng. Hân chà xát lia lịa. Mọi người đưa con mắt nhớn nháo nhìn Hoàng. Những cụ bà thầm nghĩ : “Không lẽ ma nhập vào nó ?”. Nhưng những ánh mắt của những cụ ông lại khác : “ Hay nó bị Cá Ông phạt ? Hơn mười năm nay đâu có cúng kiến khi Cá Ông bị lụy đâu”.
Người dân vùng biển có cái tật hay hay, thì ra nếp nghĩ, lòng tin vào Cá Ông trở thành máu huyết, hơi thở, tình cảm. Được mùa cá cũng nhờ Cá Ông. Tai qua nạn khỏi cũng nhờ Cá Ông. Không có Cá Ông thì ai cai quản vùng biển. Không có Cá Ông thì con người tìm được những gì giữa sóng nước mênh mông ?
Một cụ già lên tiếng :
- Có lẽ nó bị Ông phạt rồi .
Giọng mẹ Hoàng hụt hẩng.
- Ôi thế thì nguy cho con tôi mất. Bà con ơi ! Cứu con tôi với ! Con tôi bị Cá Ông phạt rồi . Chết mất con tôi !
Hoàng vẫn nằm im trên gường. Bà mẹ cứ cuống cuồng lên : “Con tôi chết mất. Con tôi chết mất !”. Hân lặng lẽ đến bên bàn thờ rút mấy cây nhang, anh thắp. Mẹ Hoàng như sực tỉnh. Bà chạy lại giành lấy những cây nhang đang cháy đỏ, vái lia vái lịa khắp cả bốn phương : “Lạy Trời, lạy Phật, cứu con tôi tai qua nạn khỏi ! Lạy Trời, lạy Phật…”.
Mấy cụ bà chép miệng.
- Tội nghiệp cho nó thật .
Mẹ Hoàng vẫn tiếp tục vái …
2. Trời trở gió, từ phía Đông Bắc mây kéo về phía núi Sơn Trà. Mùa hè mà thời tiết xảy ra thất thường. Mưa nắng những năm gân đây không còn theo đúng quy luật có từ xưa nữa. Cũng không hiểu nổi ? Hân đi dọc theo bờ biển. Mưa bắt đầu rơi trên biển. Gió nổi lên. Anh vội chạy vào bờ. Mọi người dạo chơi cũng chạy vào các lều quán trên bãi trốn mưa.
Hân nhìn trời mưa, không tính được một tí gì cho ngày ra khơi sắp đến. Anh thở dài. Lấy vội trong túi gói thuốc, anh rút một điếu châm lửa hút. Hơi thuốc làm anh tự tin hơn. Anh về nhà tham khảo ý kiến của cha mới được.
Hân đội mưa , trở về nhà . Bước vào nhà, anh thấy cha đang vá lưới. Nghe tiếng chân anh, ông Nghỉ cất tiếng :
- Con đi đâu về đó ?
- Dạ, con ra thuyền xem lại có thiếu gì không để chuẩn bị ngày mai lên đường. Trời không giúp chúng ta tí nào cả.
Ông Nghỉ nói sang chuyện khác :
- Thằng Hoàng vẫn chưa bớt con à. Không biết nó bị bệnh gì mà lên cơn mê sảng dữ vậy ?
Hân không nói gì cả. Anh tiếp tục hút điếu thuốc khác, nhìn mưa. Ông Nghỉ vẫn cứ vá lưới. Bỗng ông ngừng tay, nhìn ra ngoài trời. Mưa vẫn rơi đều hạt. Từ xưa đến nay rất ít khi gặp tiết nắng nóng mà có gió như tháng mười, tháng mười một. Ôi , cũng tại trời . Ông suy nghĩ miên man, hay là Cá Ông lụy thật. Thế là đang vá lưới, ông bỏ đó vội lấy áo mưa mặc, đi ra biển. Hân vội kêu :
- Cha , cha đi đâu đó ? Đợi con đi với !
Hân chạy theo.
Hai cha con, kẻ trước người sau đi giữa cơn mưa. Hân không mặc áo mưa. Nước thấm làm anh nghe lạnh sống lưng. Đột nhiên, anh bước mạnh lên gần ông Nghỉ và hỏi :
- Bây giờ làm gì hở cha ?
- Cha cũng không biết nữa - ngừng giây lát, ông Nghỉ nói tiếp - Cha cảm thấy Cá Ông lụy, con à. Chứ mùa này dễ gì mưa gió như thế này.
- Con làm sao biết được .
- Đúng thế. Con còn trẻ, nhiều điều xảy ra trước khi con sinh ra làm sao con biết được .
Ông Nghỉ lại thở dài trong mưa. Gió vẫn rít. Ông cảm nhận những giọt nước mưa hoà với da thịt ông đang chảy vào miệng ông - mặn như biển .
Hân nhìn ông, nói :
- Điều cha nói là tất nhiên rồi. Nhưng sao cha thở dài vậy ?
- Không có gì đâu ! - ông nói như với chính ông - Đó là những chuyện xảy ra ngày xưa, bây giờ lũ trẻ cho là bịa, lạ cho chúng thật.
- Có điều gì vậy cha ?
- Không ! - Nhưng ông vẫn thở dài. Hai cha con tiếp tục đi. Cứ thẳng hướng núi Sơn Trà mà bước .
- Đi đâu vậy cha ?
- Mặc tau. Mày đi về đi. Nếu không thì mày đi về phía Non Nước xem Cá Ông lụy chỗ nào , tau nghi lắm .
- Cá Ông lụy thì mặc Cá Ông, có gì mà cha lo dữ vậy ?
Ông Nghỉ giận dữ :
- Mày ăn nói vậy, không sợ gì sao ?
- Con có biết gì đâu cha .
- Bọn bay ngu hết cả lũ. Đừng có tưởng bây giờ văn minh rồi muốn gì làm gì thì làm. Không tin quỷ thần gì cả. Tưởng thế là văn minh à. Phải tin con à ! - Giọng ông trầm hẳn - Không tin sao được hở con ? Phải kính trọng quỷ thần con à !
Hân im lặng. Mặc sức cha anh diển thuyết niềm tin của chính ông đối với biển.
Mưa vẫn rơi. Hân nhìn mặt biển. Sóng vỗ ầm ầm dưới chân anh . Hân ngước mắt nhìn phía Non Nước. Một màu mưa. Thấy Hân vẫn đứng, ông Nghỉ bực tức quát lớn, tiếng ông át hẳn tiếng sóng, tiếng gió, tiếng mưa. Anh tưởng chừng đó là tiếng sấm của đất trời .
- Mày đứng đó à ! Có đi không ?
Hân không dám cãi lại. Anh chạy một mạch về phía Non Nước. Còn ông Nghỉ, đứng nhìn bóng Hân khuất xa, ông cúi đầu rảo bước về phía Sơn Trà.
Hân cứ đi, bước chân trên cát.
Gió gầm lên. Hân bỗng thấy một cánh chim biển lạc loài tìm nơi ẩn trú. Kia rồi ! Cánh chim bay về bờ dương. Những cây dương như đang hát trước cơn mưa gió .
Hân thấy cánh chim đang gắng sức bay vào bờ dương, nhưng nó đã rã rời cánh. Nó rơi như một hòn đá không gây một âm thanh trên bãi cát trong cơn mưa. Nó rơi quá thê thảm, khi mà chỉ còn trong phút chốc sẽ đến bờ dương trú gió, trú mưa. Hân cảm thấy cuộc đời của loài chim sao mà nhỏ bé trước thiên nhiên. Anh có giống con chim kia không, khi anh đi tìm con vật mà cha ông anh đã thần thánh hoá trong nghề nghiệp? Những lần ra khơi đánh cá, giữa trời biển bao la, cuộc sống của anh có khác gì cách chim kia. Anh vội chạy đến. Trước mắt anh là con chim tội nghiệp. Nó đang ở bên anh. Anh cuối xuống, khẽ nâng nó lên. Vẫn còn hơi thở, nhưng yếu lắm. Anh mỉm cười như khám phá ra một điều bí ẩn đầy lý thú ở con chim. Anh ôm nó vào ngực, con chim nằm im trong hơi ấm của người. Anh chạy vào bờ dương. Mưa vẫn xối xả. Anh cảm thấy đỡ lạnh hơn. Bờ dương che gió cho anh và anh che gió cho con chim biển .
Anh thèm một điếu thuốc. Gói thuốc trong túi áo của anh bị uớt. Nhìn con chim, anh quên chuyện Cá Ông . Trong ngực áo anh là sinh vật bắt đầu cựa mình. Anh thấy sung sướng vì đã cứu được một sinh vật, anh vội vã quay lại, bước vào quầy giải khát gần khách sạn Hoa Biển.
Ông Nghỉ đi, đầu hơi cúi xuống, chốc chốc ông nhíu đôi lông mày nhìn ra khơi. Không biết Cá Ông trôi dạt về đâu. Nghể biển, cái nghề suốt những ngày lên đênh trên sóng nước, vật lộn với hiểm nguy để có cái ăn, cũng nhờ Trời Phật cả. Trong đầu ông biết bao chuyện hiện ra rồi biến mất như những con sóng đổ vào bờ để rồi nhường chỗ cho những con sóng tiếp theo. Ông đi lên rồi đi xuống dọc bờ từ Mỹ Khê đến Mân Thái. Phía Non Nước để cho thằng Hân lo. Ông tin ở con, thay mặt ông, tìm cho được Cá Ông.
Gió mưa vẫn cứ gào rú. Không tin ở mắt mình ! Trước mắt ông là một vật đen ngòm đang dập dềnh muốn vào bờ. Không lẽ Cá Ông đây sao ? Quỳ xuống trong cơn gió mưa, giữa đất trời, chắp tay trước ngực, ông lạy lia lịa vật trước mặt, miệng khấn :
- Lạy Ông ! Lạy Ông ! Nếu Ông chọn nơi này để yên nghỉ, cầu xin Ông giúp con đưa được xác Ông vào bờ .
Cầu khẩn một mình, chẳng ai nghe thấy tiếng ông. Chỉ có gió, mưa và biển như thông cảm cho số phận của ông. Vái lạy xong, ông đưa mắt nhìn. Vật đen đã biến mất. Ông quýnh lên :
- Trời ơi ! Sao tôi để mất Ông ? Tôi có điều gì làm phật lòng Ông ? Hỡi đất trời, hãy giúp thân phận nhỏ bé của con !
Không có ai ngoài gió mưa. Ông chạy lên chạy xuống. Không có ai cả. Cũng tại ông cả thôi. Ông bắt đầu khóc cho số phận không may của mình. Nước mắt ông hoà với nước mưa chảy vào biển.
Ông ngồi xuống. Mưa cứ rơi. Ông ngồi nhìn từng con sóng đang đổ vào bờ. Ông tưởng chừng Cá Ông đang ẩn hiện. Ông phải tìm cho được Cá Ông. Niềm tự hào, vinh dự và cái nghiệp cho ông khi tìm được Cá Ông. Ông sẽ là trưởng nam. Phước đức sẽ còn mãi với làng cá nếu Cá Ông về trú ngụ nơi đây. Ông muốn tự mình đem được Cá Ông vào bờ. Ông phải chờ Cá Ông nổi lên…
Ký ức của ông hiện về … Làng cá nghèo. Bờ dương bạt ngàn. Niềm vui thời trai trẻ… Vợ ông đã bỏ ông đi hơn hai mươi năm … Đâu rồi ? Vợ ông ?
Những lần ra khơi. Chiếc ghe nan. Cá về …Cuộc sống, cái chết cứ dập dềnh, bồng bềnh… Ông như nghe tiếng vợ ông …
Và bây giờ, ông đang đi tìm kiếm Cá Ông. Ông thất tha thất thểu. Mới thấy Cá Ông đây, nhưng sao lại mất thế này. Ông Nghỉ không hiểu nổi con mắt mình.
Kia rồi Cá Ông lại hiện lên ; dập dờn khối đen trước mắt ông. Ông mừng như vừa được sống lại. Ông chạy ào ra biển để kéo Cá Ông vào bờ . Nhưng ông khựng lại. Trước mắt ông là người đàn bà hiện ra can ngăn ông. Ông nhìn bà ta ngạc nhiên khi bà ta ra lệnh cho ông ngồi. Ông ngồi xuống đất dụi mắt, có phải ông chiêm bao chăng. Sao gương mặt bà ta giống bà Nghỉ thế. Ông lắp bắp hỏi :
- Bà, bà, bà là …
Người đàn bà cười nhẹ nhàng :
- Có phải ông hỏi tôi là bà Nghỉ, vợ ông không, chứ gì ?
Ông gật đầu. Ngừơi đàn bà nói tiếp :
- Đúng là tôi là con mẹ Nghỉ, vợ của ông đây.
Ông Nghỉ không tin là sự thật. Ông vội vàng ôm chầm bà ta.
- Bà đây ư ? Bà đây ư ? Xin bà cùng tôi kéo Cá Ông vào bờ.
Giọng bà Nghỉ từ xa xăm vọng lại :
- Không được ! Không có Cá Ông đâu .
Ông Nghỉ đưa tay chỉ vật đen ngòm đang dập dềnh.
- Kia kìa, Cá Ông đó ! Bà làm ơn giúp dùm tôi .
Tiếng bà Nghỉ thoảng như tiếng gió, yếu ớt :
- Không phải Cá Ông đâu. Không phải Cá Ông đâu. Ông coi chừng .
Ông Nghỉ hất tay bà ta ra, chạy ra biển. Người đàn bà tan biến trước mắt ông Nghỉ. Chỉ có vật đen ngòm đang dập dềnh. Ông chạy ào xuống biển. Nước biển đến ngực, rồi đến cổ. Ông bơi. Sóng dập dềnh, dập dềnh. Ông vừa bơi vừa vái : “Lạy Trời, lạy Phật giúp con !”. Như tăng thêm sức mạnh vì lòng tin, ông Nghỉ bơi, ngụp lặn trong sóng biển. Vật đen ngòm sao cứ cách ông một khoảng cách cố định. Ông vẫn bơi. Vật đen cứ trôi dần ra xa. Ông cố bơi để đến với Cá Ông, đem Cá Ông vào bờ. Ông Nghỉ tưởng chừng dưới lòng biển, bầy thuỷ quái đem Cá Ông ra xa. Ông thầm nghĩ đến cuộc chiến đấu của Cá Ông với quỷ biển để cứu người. Máu Cá Ông đã hòa vào biển để biển muôn đời mãi mặn. Cá Ông là mảnh đất hồi sinh cho biết bao con người qua những cơn bão biển. Phải đem xác Cá Ông vào bờ cho trọn nghĩa tình.
Bỗng phực một tiếng dưới chân ông Nghỉ. Ông bị vọp bẻ. Trời ơi ! Cơn đau ở bắp chân không thể tả. Vừa bơi đứng, ông vừa cố vuốt bắp chân. Ông uống một ngụm nước biển, rồi hai ngụm… Cơn đau đang siết chặt chân ông. Ông vùng vẫy trong cơn đau quặn thắt . Trước mắt ông chỉ là màu nước biển đang dần dần hoá đỏ …
3. Hoàng vẫn mê man. Đầu óc anh quay cuồng trong tiếng gió. Trước mặt anh là gió. Chỉ có gió. Gió cuốn riết lấy hồn anh chơi vơi trên thinh không. Vũ trụ thênh thang. Những ngôi sao nhấp nhấy ở đằng xa . Và anh cứ bay, chơi vơi. Chỉ mình anh. Anh cố nhớ lại bài học giáo khoa về vũ trụ. Mặt trời kia kìa ! Lửa cứ đỏ. Nhỏ xíu là mặt trăng trước mắt anh. Và đằng xa kia là Sao Hoả, Sao Bắc Đẩu… Vô vàn những ngôi sao đang đủng đỉnh đi trật tự. Chúng đang làm việc của chúng. Hồn Hoàng vẫn chơi vơi bay. Như ánh sáng, anh bay qua phải, bay qua trái, bay lên, bay xuống. Vẫn trống vắng. Cõi thiên đường ở đâu ? Anh cố lục óc mình xem, nhưng bất lực. Anh bay ở khoảng không vũ trụ. Cứ thế anh bay. Những trái đất , những mặt trời hiện ra rồi mất, rồi hiện ra.
Không một điểm tựa. Anh chơi vơi. Trọng lực hầu như mất hẳn. Đầu óc anh rỗng tuếch. Anh không còn nhớ một điều gì. Chỉ có gió. Mù mịt là gió. Tất cả âm thanh của gió đang hoà quyện, réo gọi hồn anh. Hầu như âm thanh của vũ trụ bắt đầu từ gió. Gió đang kêu gào, gầm thét. Đó là tiếng dân ca của mọi dân tộc từ núi rừng tới ốc đảo, với ánh lửa bập bùng trong những ngày hội, với lời tình tự bên bờ sông. Đó là tiếng nhạc vẳng lên từ ngọn lá bàng, từ những bàn tay thon thả. Đó là tiếng nhạc sex từ các vũ trường làm chới với những con mắt cuồng si thân thể vũ nữ. Và đó cũng là tiếng khóc ai oán của những người vợ goá khóc chồng vì các cuộc chiến tranh bẩn thỉu của những mưu đồ chính trị do các lãnh tụ đem lại. Đó là tiếng cuời -Không ! Đó là tiếng gầm rú của sư tử trong rừng, là tiếng tru hoang của bầy sói. Gió là tiếng vọng của thời man khai truyền đến thế kỷ này. Hoàng nghe được âm thanh của gió. Hoà vào gió, anh bay. Cười khóc, gầm rú như gió, anh bay, bay mãi không biết nơi nào là đích và không biết chỗ nào là điểm khởi đầu .
Gió là anh. Anh là gió. Lúc cao, lúc thấp, qua trái, qua phải, lên, xuống, vô cùng. Tất cả các vì sao quay quanh anh. Anh chỉ thấy ánh sáng nhờ nhờ của biển trong đêm trăng. Chỉ có gió. Anh hét lên :
- Tôi ở đâu đây ?
Tiếng hét của anh hoà vào gió. Và anh nghe tiếng hét của một người nào đó lanh lảnh ngược gió về phía anh.
- Tôi ở đâu đây ?
Anh bay đi tìm con người hét ra tiếng đó. Anh chơi vơi trong khoảng không để tìm tiếng hét. Kinh dị, anh hét to lên :
- Ai đó ?
Có tiếng hét ngược lại, anh khiếp đảm, mắt nhắm nghiền. Khi mở mắt ra cũng chỉ là khoảng không trống vắng. Anh tự an ủi, tự vượt qua nỗi khiếp sợ : “ Việc gì ta phải sợ ! Ta là con người. Ai làm gì được ta nào ?”. Những bài học giáo khoa lại hiện ra trong óc anh. Con người là sinh vật cao cấp chinh phục được thiên nhiên và bắt thiên nhiên phục vụ mình. Ta là con người, ta sợ gì ? Con người đã đặt chân lên mặt trăng, đã thấu hiểu nghiên cứu Sao Hoả, Sao Kim .. Ta đã đến đây, xa hơn cả mặt trăng, Sao Hoả, Sao Kim. Ta còn sợ gì ? Nghĩ thế Hoàng thấy yên lòng. Anh lấy tay làm chiếc loa, miệng nói với tiếng vọng vô hình :
- Có thể đến cùng tôi, được không ?
Tiếng vọng đáp :
- Có thể …
Hoàng nói tiếp .
- Tôi đến nhé .
Tiếng vọng xa :
- … Đến …nhé .
Và anh bay đến tiếng vọng kia. Chỉ có tiếng nói hỏi anh :
- Kìa, anh đã đến đó ư ? Anh là Hoàng đấy ư ? Anh là thằng người đấy ư ?
Chỉ nghe được tiếng nói, không có một bóng người, nhưng anh vẫn trả lời :
- Vâng ! Tôi là thằng người đây ! Còn người là ai ?
Tiếng vọng cười quái dị :
- Tôi là ai ? Tôi luôn ở bên cạnh anh mà anh quên tôi rồi sao ?
Hoàng không tin ở đôi tai mình bèn hỏi :
- Người luôn ở bên cạnh tôi ?
- Vâng, tôi luôn ở bên cạnh anh. Tôi đâu có bỏ anh .
Tiếng vọng cưòi ; Hoàng nghe lạnh toát mồ hôi. Anh giơ tay hất tiếng vọng từ bả vai xuống, nói :
- Xin người đừng làm tôi sợ !
- Tôi đâu có dám làm anh sợ. Tại anh tự sợ đấy thôi. Tôi là bạn anh, tôi có khi nào làm hại anh đâu .
- Nhưng người là ai ? Sao người chẳng cho tôi thấy mặt ? Nói chuyện kiểu này tôi sợ lắm .
- Anh cho tôi là ma sao ? - Tiếng vọng thở dài .
- Tôi không hiểu người là ai ? Xin người hãy cho tôi xem mặt ?- Hoàng khẩn thiết - Xin hãy cho tôi xem mặt .
- Được thôi. Nhưng tôi e anh chết mất.
- Không đâu. Tôi không việc gì đâu .
- Tôi sẽ biến ra một ác quỷ có răng nanh, tóc dài ngoằn ngoèo những rắn, được chứ.
- Không. Tôi không dám nghĩ thế đâu !
- Hay tôi biến ra nàng tiên yểu điệu?
- Tôi đâu dám mơ thế .
- Hay anh nghĩ tôi là ông Bụt như trong truyện cổ tích ?
- Xin người đừng nghĩ tôi mơ ước như vậy.
Tiếng vọng cười mơ hồ :
- Thật lạ cho anh. Tôi sẽ hiện hình như thế nào đây .
- Tuỳ người !
- Anh sẵn sàng chờ tôi hiện hình chứ ?
- Sẵn sàng .
Bên tai Hoàng chỉ là tiếng gió vọng mơ hồ đang quấn quýt xoắn xuýt lại. Một hình người hiện lên : Hoàng. Chính là Hoàng ! Không tin ở mắt mình, anh nói :
- Người đây ư? Không thể là thế được.
Anh mở choàng mắt. Giang đứng lay vai anh , gọi .
- Anh Hoàng ! Em đây. Anh nói gì thế ?
Cơn mệt mỏi vẫn còn, Hoàng nói yếu ớt :
- Không … Anh có nói gì đâu .
Giang đặt tay lên trán Hoàng, nói :
- Đầu anh nóng như lửa. Em pha nước anh uống nghe.
Hoàng gật đầu. Cổ họng anh khô khốc như anh đã chạy một quảng đường dài dưới trưa hè. Giang pha nước mang đến cho Hoàng. Giang đỡ Hoàng dậy. Anh chống tay ngồi dậy uể oải. Anh giơ cả hai tay bưng lấy ly nước. Anh uống. Anh gật đầu cười gượng gạo với Giang.
Ngoài sân có tiếng ồn ào. Giang chạy ra. Hoàng nghe tiếng được, tiếng mất. Tiếng Giang nức nở. Chuyện gì vậy ? Chuyện gì đã xảy ra ? Ai làm Giang khóc ? Hoàng đoán già đóan non. Tiếng mẹ Hoàng thất thanh :
- Hân ! Con nhờ bà con đi tìm xác nhanh lên.
Tiếng Giang kể lể :
- Cha ơi ! Cha ơi là cha …
Hoàng muốn hét lên, muốn ngồi dậy, nhưng anh vẫn nằm ì một cách bất lực. Anh hiểu cả. Nước mắt trào ra …
4. Hoàng nằm nhìn vớ vẩn mọi vật dụng trong căn phòng. Anh cảm thấy trống vắng. Tất cả im lặng một cách đáng sợ. Mọi người đã đi. Không hiểu vì sao bác Nghỉ lại mất đột ngột như vậy. Hoàng ngồi gượng dậy, nhìn ra ngõ. Chỉ có ánh nắng vàng vọt cùng làm bạn với ngõ chiều vắng teo.
Mới đây thôi, bác Nghỉ khuyên anh chăm lo tịnh dưỡng để chuẩn bị ra khơi. Bác còn lo tất bật những công chuyện khác để đội thuyền yên tâm trong những ngày lênh đênh trên biển. Anh như thấy bác Nghỉ trước mắt mình, thầm nói : “ Tau thương mày như con. Tau tìm Cá Ông để chôn cất cũng vì mày đó. Giờ tao vĩnh viễn nằm yên trong lòng của biển cả mênh mông. Tau đã tan vào biển. Tau sẽ hộ trì dân biển mình. Tau sẽ hộ trì mày. Mày đừng đau ốm thế, không hay đâu. Mày phải vùng dậy ngay đi ! Mày phải xứng là con trai của biển cả đi !”. Hoàng ngồi dậy, nhưng anh cảm thấy đầu óc mình choáng váng, chân tay mỏi nhừ. Tiếng ông Nghỉ như bên tai : “ Sao thế Hoàng ? Mày hèn như thế à ? Phải dũng cảm lên con ạ. Tau chết , nhưng mày biết đó, sự gan lì của tau đối với mọi công việc, đối với biển vẫn cứ làm cho tau như đang sống trong biển. Ai không ốm đau, ai không chết. Nhưng sự ốm đau có ích gì khi tự mình tạo ra nó. Tự tạo ra nó thì cũng có quyền đuổi nó ra khỏi thân thể, được không Hoàng ?”.
Hoàng hét to : “Bác Nghỉ ơi ! Con nghe lời bác . Được ! Con sẽ hết bệnh ngay thôi”.
Như có sức mạnh vô hình truyền vào cơ thể, anh nhảy xuống giường, chạy ra biển. Vừa chạy anh vừa hít thở khí trời. Anh như khoẻ ra…
Đứng trên bờ , nhìn ra xa, biển xanh dưới nắng. Từng cơn sóng vỗ vào bờ. Từng tốp hai ba người đang dạo biển. Hoàng đưa mắt nhìn một lượt từ Sơn Trà đến Non Nước. Bóng dáng của Hân nhỏ bé ở cuối hàng dương. Không chần chừ, Hoàng chạy về phía Non Nước , miệng kêu lên :
- Hân ơi ! Hân ơi …. Đợi tau với !...
Hoàng không để ý đến ai. Anh cắm cổ chạy….
Hân đứng nhìn mung lung vào lòng biển . Nơi nào cha anh đang ở ? Anh căng đôi mắt nhìn từng đợt sóng đổ vào bờ. Biển sao khắc nghiệt với anh thế ? Cha anh có làm gì hại biển đâu mà biển cướp mất cha anh ? Sống một đời cha anh vẫn thường khuyên anh : “ Phải yêu biển con ạ ! Phải yêu nó, nó mới yêu mình. Nó sẽ giành cho mình những gì nó có. Yêu biển thì cái bụng mình mới no được. Con thấy đấy, biển có ghét ai đâu. Cha khuyên con sống vì biển, chết cũng vì biển nghe con !”. Nước mắt anh trào ra. Cha anh thương biển đến thế, sao biển cướp mạng sống cha anh. Đêm qua, cơn mơ đã đến với anh. Thần Biển đã đến với anh. Anh khóc như một đứa trẻ. Anh kể lể, van xin. Thần Biển hiền từ như một ông tiên, giọng ôn tồn : “ Đừng có khóc. Ta là Thần Biển, anh em của Lạc Long Quân đây. Con cháu Lạc Long Quân và Âu Cơ mà khóc thế à ? Ta thường bàn chuyện với Lạc Long Quân là các ngươi dũng mãnh, can đảm, thông minh lắm kia mà. Đừng khóc! Khóc sẽ làm cơ thể mình nhũn ra như con trùn gặp phải vôi đấy. Có điều gì khóc, con cứ nói, ta giúp con”. Hân nài nì xin Thần Biển cho cha anh sống lại. Thần Biển cười hiền : “Cha con đâu có chết. Cha con đang sống ở biển đấy. Cha con đang hầu chuyện với Lạc Long Quân. Người chỉ chọn những đứa con thật sự yêu biển về sống với Người thôi”.
Có phải cha anh đang hầu chuyện với Lạc Long Quân ? Đầu óc anh căng ra trong cơn mơ đêm qua. Anh chỉ nghe tiếng gió nhè nhẹ. Trong tiếng gió thoảng như có tiếng gọi : “ Hân…ơi!... Hân ơi !”. Tiếng gió vọng chơi vơi : “ Hân ơi !... Hân ơi !…”.
Hoàng chạy đến bên Hân. Anh mệt quá, ngã nhào trên người Hân. Hân ôm bạn, ngạc nhiên :
- Ai bảo mày ra đây ? Mày bệnh mà liều lĩnh thế à ?
Hoàng đứng thẳng dậy, nhìn thẳng vào mặt Hân :
- Tau mà bệnh à. Hết rồi!... Bác đâu rồi ?
Hân im lặng. Cả hai đều nhìn ra biển như chờ đợi một điều gì đó sẽ xảy ra. Họ đứng xít lại gần nhau hơn, nắm tay nhau ….
5. Đám tang ông Nghỉ đầy đủ theo nghi lễ của người dân ở đây. Hội Bảo Thọ, Hội Chữ Thập Đỏ Phường cử người dân cùng gia đình lo việc ma chay. Ông Nghỉ về nơi an nghỉ cuối cùng.
Chiều xuống. Hân cùng Hoàng chậm rãi bước những bước nặng nề. Cả hai người đến thăm mộ ông Nghỉ. Bó hương trên tay Hoàng được thắp lên. Ngọn lửa đỏ bùng rồi tắt, chỉ còn sức âm ỉ dai dẳng ở đầu từng cây hương, một màu sáng đỏ và hoá thành hương khói bay lên. Không biết hương hồn ông Nghỉ có chứng giám lòng thành của Hân, của Hoàng không. Nhưng cả hai ngồi yên lặng, thành khẩn như rằng có một thế giới vô hình nào đó đang ngự trị trên cái thế giới vật chất này.
Hân từ từ, chậm rãi cắm từng cây hương trên những ngôi mộ chung quanh. Sống cái nhà, chết cái mồ. Ông Nghỉ đã từ giã người sống để ra đi, và bây giờ ông đang làm bạn với những người láng giềng lặng yên của ông. Không còn cảnh cãi cọ giữa những người thân thiết trong gia đình, làng xóm. Chỉ có những người hàng xóm dễ thương, lặng yên như ông. Họ nằm đây, mặc cho con cháu, lớp hậu sinh làm những công việc kế tiếp họ. Họ không phê bình, không trách móc, không đánh đập, mạt sát. Rồi một ngày nào đó, con cháu họ cũng sẽ tề tựu về đây làm bạn với họ qua những hài cốt bất động.
6. Sau buổi thăm mộ ông Nghỉ về, Hoàng nghĩ suy miên man về kiếp người. Anh nằm trên giường thiếp đi lúc nào không hay. Anh thấy mình cùng chim hải âu bay lên cao. Dưới mắt anh là biển muôn đời xanh bất tận nhờ sắc trời và màu xanh của sự sống. Chim đưa anh về đâu, anh nào biết được. Trước mắt anh là không trung rộng lớn. Trước mắt anh là biển cả mênh mông. Anh như tan biến trong vũ trụ mênh mông, nhưng nào anh có thể biến tan được. Anh như nhẹ tênh theo cánh chim. Cánh chim đưa anh đi, đi xa tít tắp.
Trước mắt anh là ánh sáng diệu kỳ. Thứ ánh sáng khác hẳn với ánh đèn điện, ánh mặt trời. Thứ ánh sáng nửa thiên thần, nửa ma quái ở phía trước anh. Anh muốn chạy trốn thứ ánh sáng ấy. Thế mà, cánh chim cứ chở anh đi, chở anh lao về phía ánh sáng đó. Anh nhắm nghiền mắt lại, mặc cho chim đưa anh đi đâu thì đi. Anh phó mặc số phận chơi vơi trong khoảng không của vũ trụ. Chỉ trống vắng. Thấp thoáng trong ánh sáng dị kỳ hình như có một cô gái như sương khói. Anh gọi to :
- Ai đó ?
Có tiếng vẳng lại nghe xa xăm :
- Ai đó ?
Anh đánh bạo hỏi :
- Cô là ai ?
Cô gái không trả lời mà chỉ nói :
- Anh hãy đến với tôi, hỡi chàng trai trẻ ?
Anh đến bên cô gái. Cô đẹp rực rỡ. Ngạc nhiên, anh hỏi :
- Cô làm gì một mình ở đây?
Cô gái cũng hỏi lại anh .
- Thế còn anh ? Làm gì anh đến xứ sở này ?
Hoàng ấp úng.
- Tôi ấy à …
Cô gái cười.
- Nói chơi vậy thôi ! Anh là người hành tinh nào ?
Anh hoạt bát hẵn lên :
- Tôi từ quả đất đến đây.
Cô gái nhạc nhiên .
- Người từ quả đất mà lên được xứ này à ? Anh có biết đây là đâu không ? Xứ An Lạc, anh biết không ?
- Xứ An Lạc ?
- Vâng ! Và người cai quản xứ này là Lạc Long Quân. Anh có muốn gặp Người không?
Anh làm thinh. Cô gái lại hỏi :
- Hay anh không muốn gặp Người ?
- Không, không phải thế đâu. Cô đưa tôi đi gặp Người đi.
- Bây giờ anh nhắm mắt lại đi, phải mắt lại, không được mở mắt ra đấy nhé, khi nào tôi bảo mở mắt ra thì anh mở mắt, còn không thì…
Hoàng hỏi :
- Còn không thì sao ?
Cô gái đáp như ra lệnh :
- Còn không thì sao gặp nguy hiểm đấy .
- Tôi thực hiện đúng yêu cầu của cô. Cô đưa tôi gặp Người đi.
Hoàng nhắm nghiền mắt lại. Anh bay cùng cô gái. Họ bay, bay… Anh nghe rõ cánh chim biển cùng bay với anh. Như có sự cảm ứng, chim nói chuyện cùng anh :
- Đừng sợ, anh Hoàng. Tôi ở bên cạnh anh đây. Chúng ta cứ bay đi. Chúng ta bay tìm cái đích thực của chúng ta đi.
- Cái đích thực ư ? Phải tìm nó ư ? – Hoàng hỏi chim.
Chim đáp :
- Vâng ! Cứ tìm đi hỡi chàng trai trẻ. Cứ bay tìm cái đích thực đi. Biết đâu nó sẽ làm anh đổi đời.
- Ồ, cái đích thực sẽ làm cho con người đổi đời. Cái đích thực sẽ làm cho thế giới này như thế nào nữa chứ ?
- Cứ bay đi. Anh bận tâm làm gì sự đổi đời của thế giới này . Phải tự đổi đời của mình trứơc đi .
Hoàng hỏi một cách hoang mang :
- Tôi phải làm gì bây giờ ?
Chim đáp :
- Làm gì à ? Phải tự tìm cách trả lời đi. Phải tự tìm chính mình đi. Phải bay về cái đich của mơ ước đi. Hãy bay lên đi, hỡi chàng trai trẻ !
Hoàng rủ rỉ cùng chim :
- Vâng, tôi bay đây.
Gió vẫn réo gọi bên tai. Tất cả đều bay đi tìm gốc tích của con người.
Cô gái nắm chặt tay anh. Vừa dịu dàng, vừa nghiêm khắc, một thứ cảm giác xa vời truyền khắp người anh. Anh nói :
- Hãy thả tay tôi ra.
- Anh muốn chết sao?
Họ vùng vằng . Hoàng chợt tỉnh giấc.
7. Vào thời xa xưa, vùng biển này chỉ là bãi cát trống vắng.
Thần Kim Quy phụng mạng Lạc Long Quân dựng xây núi Non Nước. Một bầu thuỷ tú, giang sơn gấm vóc hiện lên. Ngũ hành vũ trụ được thần Kim Quy, vị kiến trúc sư tài tình, đem vào năm ngọn núi : Kim , Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Lạc Long Quân lấy làm hài lòng cho phép thần Kim Quy trấn gĩư đất Non Nước.
Gió thường đổ ào đánh phá Non Nước. Gió mặc sức tung hoành. Thần Kim Quy ra sức chống Gió.
Gió lợi dụng mưa nắng thất thường đánh phá xứ này. Gió lấy viện binh từ Thái Bình Dương . Gió tràn đến đâu nhà cửa sập đến đấy. Đá lở, cây ngã, sinh linh thống khổ. Gió như vào chỗ không người. Gió rít rú cười quái gỡ… Tiếng than khóc của con người thấu đến cõi ngự Lạc Long Quân. Bồn chồn lo lắng vì các con bị tai hoạ, Lạc Long Quân nghĩ phải tìm cách cứu.
Một hồi trống đồng vang lên. Cả triều thần nhóm họp khẩn cấp tìm cách cứu con người . Khi xong nghi lễ, Lạc Long Quân mới cất tiếng hỏi :
- Trong các khanh, ai là kẻ có thể đánh tan Gió ?
Không một tiếng trả lời .
- Không lẽ xứ sở này đã hết người tài sao. Các ngươi có vì con cháu Lạc Hồng mà đánh tan Gió không ?
- Chúng tôi sẵn sàng đợi lệnh Người ! Chúng tôi đem hết sức mình vì lợi ích của sinh linh .
- Thế thì phước đức cho xứ sở Lạc Hồng ! Ai sẽ xung phong ra trận đợt này ?
- Để đó cho con .
Lạc Long Quân quay mặt nhìn, đúng là Vua Hùng Vuơng Thứ I, Người cười mãn nguyện :
- Được ! ta sẽ cấp binh mã cho con.
- Cho chúng con cùng theo giúp anh con ! - Một loạt cả chín mươi chín người con còn lại thốt lên - Xin Bố cho chúng con cùng anh con ra trận.
Lạc Long Quân cười mãn nguyện :
- Ta tin tưởng các con .
Thế là Vua Hùng ra trận. Các tướng do Ngài chỉ huy tiến về phía núi Non Nước.
Được tin Hùng Vương đem quân cứu viện. Thần Kim Quy vui mừng khôn xiết, mở tiệc nghênh tiếp.
Đêm ấy, Gió lại đem quân đánh. Vua Hùng đem quân đánh lại. Sau hơn bốn mươi hiệp Vua Hùng vẫn không thắng Gió. Gió hoá phép, bắt đầu xoáy lên, thổi bụi vào mắt quân của Vua Hùng. Mọi người ôm mặt buông vũ khí. Gió mặc sức tung hoành. Sau khi Gió rút binh. Vua Hùng điểm binh lại, quân số chỉ còn một nửa. Một tổn thất lớn cho Vua Hùng.
Lạc Long Quân chờ tin báo tiệp của con.
Sáng hôm sau, triều thần nhóm họp. Quân sĩ vào cấp báo. Một bức thư được trình tấu với Lạc Long Quân.
“Thần tử xin chịu tội chết. Gió hoá phép mặc sức ngang tàng. Quân ta tinh thần rời rã. Trận này tổn thất hao binh. Xin ơn trời khoan dung con trẻ”.
Cả xứ đều lo âu. Liệu có thể đánh tan Gió. Quan tể tướng Lạc Hầu Tiên bước ra tâu :
- Muôn tâu, theo thần nghĩ, đối với Gió ta không thể dùng sức mà thắng được đâu, phải dùng mưu mới có thể thắng được.
- Các ngươi nghĩ ta dùng mưu gì ?
Mọi người im lặng nhìn nhau …
Tiếng nhạc vẳng đưa. Mùi hương thơm từ phía Tây toả đến. Hương lan, hương huệ thơm ngát cả xứ. Âu Cơ ngự đến thăm chồng. Cả quần thần đứng im chào Tiên Nữ Âu Cơ.
Âu Cơ nghiêng mình thi lễ :
- Thiếp xin chào chàng. Bấy lâu cách trở, lòng thiếp nhớ khôn xiết. Chỉ mong gặp chàng cho thoả lòng thương nhớ.
- Ta cũng vậy ! Lòng dạ có khác gì nàng đâu. Bụng cũng nhớ mong nàng từng giờ từng phút.
Tiếng nhạc, tiếng trống đồng hoà nhịp. Hội mừng Lạc Long Quân và Âu Cơ gặp gỡ. Cuộc vui vầy chưa dứt, quân vào cấp báo :
- Muôn tâu ! Gió lại đánh quân ta. Hùng Vương và Thần Kim Quy xin khẩn báo.
Âu Cơ lo lắng :
- Con chúng ta có sao không hở chàng ?
Lạc Long Quân vẫn không tìm ra cách chống lại Gió. Người triệu tập quần thần tìm phương cách cứu sinh linh. Lạc Hầu Tiên Tể Tướng bước ra tâu :
- Theo thần nghĩ nên tìm cách chiêu hiền đãi sĩ để tìm người tài đức trị Gió.
Lạc Long Quân và cả triều thần bằng lòng với mưu của Tể Tướng .
Nhiều người hiền tài vẫn không thắng được Gió.
Một ngày kia, có một đạo sĩ từ Đông Thắng Thần Châu đến. Đạo sĩ yết kiến Lạc Long Quân. Cả xứ Lạc Long vui mừng khôn xiết.
- Thật là may cho giòng giống Lạc Hồng. Được đạo tiên giúp đỡ thì đất nước này còn phước đức. - Lạc Long Quân cười nói.
- Không dám ! - Đạo sĩ lên tiếng - Bần đạo là kẻ tu hành, được lệnh của Bạch Ngọc Kinh đem chiếu chỉ của Ngọc Hoàng Thượng Đế đến.
Một hương án được xây tức tốc. Lạc Long Quân, Âu Cơ cùng quần thần quỳ xây mặt về Huỳnh Kim Khuyết đón nghe lời của Thượng Đế.
Không khí trang nghiêm. Trầm hương tỏa thơm cả xứ Lạc Long. Mọi người lắng nghe chiếu chỉ.
“ Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế – Giáo đạo Nam Phương rất đau lòng khi Gió tàn phá đât nuớc Lạc Hồng.
Các con ơi ! Lòng ta thường hướng về các con, mong các con trở thành người tốt. Không phải là ta không diệt nổi Gió đâu. Nhưng ngặt nỗi luật Tạo Hoá vận hành phải chịu vậy .
Gió cũng là một Thiên Thần. Gió có tài phép mà các vị Thiên Thần khác không thể đánh được. Chỉ còn cách các con cầu viện các Thần đem Gió đi xa, rồi xây thành đắp lũy ngăn chặn sự tàn phá của Gió.
Bấy nhiêu thôi. Các con khá phụng mạng”.
Sau khi tiễn đạo sĩ về, cả triều thần họp bàn, cứ người cầu viện các Thiên Thần.
Các Thiên Thần sẵn lòng giúp. Thần Mặt Trời làm nắng lên, nhưng không đun nóng bầu khí quyển. Thần Mưa tìm cách tưới những làn nước dịu dàng… Các Thần đã kéo Gió ra khơi xa. Tiếp đến, Lạc Long Quân, Âu Cơ cùng triều thần chọn địa thế để ngăn thành đắp lũy làm hàng rào vững chắc chắn Gió.
Kế hoạch xây dựng thành lũy được Lạc Long Quân giao cho các Tiên thực hiện. Địa điểm xây thành về phía Bắc của Non Nước .
Các Tiên đã dùng đất đá từ dãy Trường Sơn để xây thành. Nhiều sọt đất đá được chuyển trong nhiều ngày, nhiều tháng đã tạo nên dãy núi nằm dài soi mình bên biển. Đó là dãy núi Tiên Sa - Tiên đã xuống trần dựng nên núi. Dãy núi này tục gọi là Sơn Trà, chả là trước đây khi dựng xong núi, các vị Tiên đã trồng một giống trà quý từ Đông Thắng Thần Châu do vị đạo sĩ tặng trước lúc chia tay. Nhưng ngày nay, giống trà ấy đã mất hẳn vì lũ khỉ ở núi phá. Từ đó dãy núi được mang tên là Núi Khỉ. Nhưng tên này ít người gọi.
Trong thời gian xây thành đắp lũy, các Tiên đa tình thường xao lãng công việc. Những tiếng hát của các Tiên Cá ngoài khơi đã quyến rũ họ. Những đêm tối trời, tiếng hát du dương cứ mời gọi. Các Tiên bị cuốn hút bởi giọng hát tuyệt vời của biển. Và rồi, họ đến với tiếng hát, tâm tình với tiếng hát. Các Tiên ném vội vội vàng vàng những sọt đất đá xuống biển để đến với tiếng hát tạo thành những đảo, cù lao. Bỏ những sọt đất gần bờ, các Tiên vội bay đến tiếng hát ngoài khơi xa – Cù Lao Chàm tạo thành từ đó. Có những Tiên tiếc vàng, muốn đem vàng tặng cho các nàng Tiên Cá, thế là các vị đem vàng ra biển xa để dâng tặng cho tiếng hát ngọc ngà. Khi nhìn đắm đuối những mỹ nhân ngư khoả thân, các Tiên sững sờ buông những sọt vàng tạo nên Quần Đảo Hoàng Sa .
Thành lũy đã xây dựng xong, Gió không còn tàn phá như trước nữa. Lạc Long Quân lấy làm hài lòng. Các Tiên, một số quyến luyến cảnh biển, một số không thể dứt tình với các nàng Tiên Cá, họ xin được ở lại trấn giữ Sơn Trà, Lạc Long Quân thương tình cho số Tiên đó ở lại.
Nhiều đêm các Tiên bay từ Tiên Sa ra thăm các nàng Tiên Cá. Nhưng kẻ ở non cao, người ở biển sâu, nên họ không thể gần nhau mãi được.
Nhiều đêm các Tiên không ngủ được. Tình yêu đã dằn vặt, thôi thúc trái tim nồng cháy của họ.
Tiếng hát nhờ con sóng đưa vào bờ. Tiếng hát ngọt ngào, cay đắng, nghiệt ngã. Nghe tiếng hát, các Tiên thương nhớ các nàng khôn nguôi.
Tình yêu làm cho họ sáng suốt. Chỉ có tình yêu chân thật làm cho những người yêu nhau sáng suốt. Tất cả các Tiên dưới sự lãnh đạo của Tiên trưởng đã tìm cách bắt nhịp cầu giữa họ với các nàng Tiên Cá. Họ đào một khe nước nhỏ chảy từ núi Sơn Trà, lượn lờ trong bờ cát, đổ ra biển. Con khe đã thông núi với biển. Và các nàng Tiên Cá, những lúc nhớ Sơn Trà, nhớ nơi người yêu của mình ở, đã bơi vào bờ, theo khe nuớc nhỏ đến tận chân núi cùng các Tiên tình tự. Khe nước nhỏ chứng kiến những kỷ niệm đẹp của tình yêu và từ đó được gọi là Mỹ Khê.
Cũng nhờ khe nước đẹp, các nàng tiên cá trút bỏ lốt cá, trở thành những người vợ hiền ngoan của các Tiên. Họ sinh con đẻ cháu sống ở vùng biển này .
Bây giờ, ở đây, chỉ có tiếng hát của biển, gợi nhớ một thời mộng đẹp của tình yêu :
Đâu vô tình với em anh
Biển Đông mãi mãi như tình đôi ta
Biển em biển anh mãi là
Như đầy chung thuỷ sáng loà tình yêu
Nhớ thương sóng tím sắc chiều
Bâng khuâng mặn vị tình yêu vĩnh hằng…
Tiếng hát một thời hoà nhịp những con sóng ngàn năm mãi vỗ bờ thương nhớ…
8. Đi dọc bờ biển từ Sơn Trà đến Non Nước, ta nhìn không chán mắt bởi cảnh bình thản của rừng dương. Nhiều bạn trẻ lý thú cảnh yên bình của vùng biển. Qủa thật vùng này đẹp quá. Đẹp nhưng vẫn hùng vĩ bởi núi Sơn Trà, Non Nước. Đẹp mặn mà, ấm áp. Trước đây, vùng này có một khe nước nhỏ rất đẹp chảy từ Sơn Trà về, đổ ra biển. Nước trong vắt, mát lành. Cái khe nước len lỏi đem dòng nước hiền hoà của núi rừng về hoà nhập biển. Ngọt- mặn quyện chặt nhau như tình chồng vợ. Ngọt- mặn quyện hoà cùng nhau để có những đứa con xinh xắn, dịu dàng, cường tráng. Cái khe nước đẹp ấy đây chỉ không còn vì con người đã san lấp để xây những cao ốc.
Tiếng cười đùa dưới biển vọng lên hoà với tiếng gió. Từng đôi trai gái đi dạo trên bờ. Những người đi dạo thật bình thản. Họ bước rất nhẹ, chầm chậm trên cát, như thể họ sợ rằng buớc mạnh sẽ đau bờ. Những trai trẻ là sôi động nhất. Họ chạy, họ nhảy. Họ hít thở không khí trong lành của biển. Đôi chỗ họ tung bóng, mình dính đầy cát, nhưng họ chơi một cách nhiệt tình. Chỉ có kẻ tắm dưới nước biển là kỳ diệu nhất. Họ hoà với biển.
Tháng ngày rồi sẽ trôi đi. Cuộc đời ngày mai sẽ khác hôm nay. Có thể ngày nào đó cháu con sẽ xây dựng những ngôi nhà đẹp trên vùng biển này. Và rừng dương có thể bị thu hẹp. Nhưng cháu con sẽ làm những điều tốt đẹp. Chắc cháu con sẽ làm đẹp vùng biển này.
9. Ánh nắng buổi trưa gay gắt. Từ nhà ra biển, Hoàng phải băng qua một bãi cát. Hình như có ai đi về phía anh. Anh nghe rõ tiếng gọi của bóng dáng ấy.
- Hoàng ơi ! Hãy đến đây ! Hãy đến với bác đi Hoàng ! Bác là bác Nghỉ của con đây. Hãy đến đây đi Hoàng .
Hoàng sợ. Hay là ma hiện hình lúc đứng bóng. Muốn chạy, nhưng chân anh luýnh quýnh, líu quýu như lún sâu trên cát. Tiếng vọng thôi thúc anh .
- Hãy đến đây, hỡi con trai yêu quý của ta !
Không cưỡng nổi chính mình, anh đi đến bóng dáng ấy. Trước mắt Hoàng là ông Nghỉ. Giọng ông mơ hồ :
- Con lại đây !
Hoàng bình tĩnh :
- Dạ ! Con đến đây. Có điếu gì không bác ?
- Có đấy. Có rất nhiều chuyện để nói cùng con.
Hoàng không khỏi thắc mắc :
- Chuyện gì đấy hở bác ?
Đột nhiên ông Nghỉ hỏi :
- Con có sợ ta không ?
- Việc gì con phải sợ. Bác là bác Nghỉ. Khộng lẽ bác doạ con !
- Thế con muốn cùng ta nói chuyện không ?
- Dạ .
- Thế thì theo ta !
Hoàng đi theo ông Nghỉ. Tất cả sự vật hiện hữu như nhoà đi trước mắt Hoàng. Anh như đang sống trong một cõi khác. Chỉ còn hàng dương liễu, rừng dương liễu xanh ngút ngàn. Dương liễu trên đầu anh, dương liễu dưới chân anh. Bên trái, bên phải đều là dương liểu. Hai người cứ đi, đi hết cây dương này đến cây dương khác. Anh như cảm nhận hơi thở của đất trời toả từ lá dương. Tiếng đất thầm thì bên tai anh. Anh ngợp trong dương liễu. Mặt trời toả trên rừng dương liễu. Mặt tròi làm dương liễu xanh thêm. Tiếng ru trên rừng dương toả từ mặt trời xuống.
Những cành dương rung rung như muốn bay lên bầu trời xa kia.
Hoàng nghe tiếng tình yêu, điệu nhạc tình yêu của Mặt Trời, của dương liễu. Ôi tình yêu ! Tình yêu đã đưa bờ dương liễu lớn nhanh, xanh xanh thêm lên dịu lòng người. Tình yêu làm vùng đất này ấm lên, rực rỡ trong màu xanh hạnh phúc.
Hoàng như muốn lộn vòng trong vòng quay của quả đất quay xung quanh mặt trời. Anh thấy trước mắt là dương liễu. Nơi đâu cũng là những bờ dương xanh trong nắng vàng tươi toả hiền hoà từ mặt trời xuống. Ôi, dương liễu xanh. Mặt trời rực rỡ hào quang trên màu xanh dương liễu. Dương liễu xanh dịu dàng trong màu nắng tình yêu …
Ông Nghỉ đập vai anh :
- Mơ mộng gì thế con ?
- Đâu ? Con có sự mơ gì đâu ! - Anh nói trong ngạc nhiên – Nhưng sao cảnh vật lạ quá , kỳ diệu quá !
Ông Nghỉ chỉ mỉm cười. Họ tiếp tục đi quanh những cây dương liễu. Trước mặt họ như là thấp thoáng những ngôi mộ lặng yên. Cả hai người cũng lặng yên lắng nghe sự lặng yên của trời đất .
Hoàng vẫn không tin ở mắt mình. Cuộc đời như thực như hư. Bóng ông Nghỉ nhoà đi, rồi hiện chờn vờn trong nắng. Anh đang ở dưới nắng, dù là mùa khô khốc, nhưng anh cảm thấy không nóng bức. Anh đang cùng ông Nghỉ đi. Anh ngoan ngoãn bám chân ông.
- Này con, bác sẽ đưa con đến xứ sở An Lạc ! Con đi không ?
- Dạ ! - Ngừng giây lát, anh nói tiếp – Con cũng có lần đến đó nhưng không vào được xứ sở ấy .
- Thế à ! Con theo ta thử xem .
Hai người cứ đi. Đi mãi …
- Trước mắt họ là màu sáng rực của xứ sở An Lạc . Giống như những lần Hoàng mơ thấy. Anh muốn chạy vào đó. Muốn được yết kiến Lạc Long Quân.
Anh chỉ luẩn quẩn, quẩn quanh. Thấy ông Nghỉ đó mà anh nào theo được. Anh hét to lên :
- Đợi con với nào !
Ông Nghỉ đứng yên. Anh thấy rõ, anh muốn chạy vào, nhưng chỉ là sự quanh quẩn, quay vòng trong bước chân anh. Anh bắt tay lên miệng làm loa gọi :
- Làm sao con vào được ?
Bóng ông Nghỉ lại đến bên anh chép miệng :
- Ờ nhỉ, làm sao con vào được xứ này, Xứ này chỉ dành cho những người thật sự là con-người-yên-nghỉ. Còn con…
- Con ra sao hở bác ? - Hoàng ngạc nhiên hỏi.
- Con ấy à ? Con chưa thật sự là con-người-yên-nghỉ thì làm sao con vào được. Lỗi hoàn toàn ở bác.
- Thế phải làm gì bây giờ hở bác ?
- Bác sẽ đưa con về .
- Không , con không muốn về. Con muốn vào xứ sở An Lạc .
- Không được đâu !
- Con sẽ vào !
Hoàng chạy bừa vào, nhưng anh bị hất ngược ra. Anh chỉ chạy vòng quanh ông Nghỉ. Tiếng vọng từ xứ sở An Lạc đến bên anh :
- Hỡi con người. Các ngươi phải thật sự là con-người-yên-nghỉ mới có thể vào xứ sở An Lạc .
Hoàng bật khóc. Ông Nghỉ hỏi :
- Việc gì con phải khóc?
- Thấy xứ sở An Lạc mà không đến được, lòng con buồn lắm. Con muốn biết ở đấy có những gì ?
- Có những gì à ? Đủ cả. Nhưng tất cả đều yên nghỉ, đều tịnh, tịnh đến độ như không có gì cả .
Hoàng thắc mắc :
- Con không hiểu gì cả .
- Con không hiểu vì con chưa phải là con - người – yên - nghỉ.
- Nhưng con muốn hiểu rõ ở xứ sở An Lạc có những gì ? Bác hãy cho con biết những gì xảy ra với bác ở đó ?
- Bác không muốn nói, nhưng với con, bác coi con như con trai, bác sẽ nói cho con hiểu về bác ở xứ đó.
- Chắc là vui lắm phải không bác ?
- Không vui-không buồn. Chỉ yên - nghỉ - mà - động.
- Nghĩa là làm sao ?
Ông Nghỉ ngồi tựa bên cây dương liễu, Hoàng ngồi kế bên. Ông nói tiếp :
- Nghĩa là ở xứ sở An Lạc con người cũng phải làm, phải học.
- Bác làm những gì ? Bác học những gì ?
- Nhiều điều phải làm, làm bao giờ cho hết, đó là điều thiện có ghi trong luật pháp. Nhiều điều phải học, học giờ cho hết, đó là điều thiện có ghi trong luật pháp .
- Chắc là Lạc Long Quân dạy bác học.
- Người không dạy mà thực là Người dạy.
- Không dạy mà thực là dạy ?
- Đúng thế ! Bác chỉ học những điều có trong luật pháp và làm theo .
- Luật pháp có nhiều không hở bác ?
- Nhiều mà ít. Sách là luật pháp rất nhiều, nhiều đến độ cao hơn ngọn Hy Mã. Đủ loại luật pháp từ Đông sang Tây. Rất nhiều…
- Thế sao gọi là ít ?
- Ấy, đó là điều đáng nói. Tất cả các luật đều nêu quyền và bổn phận của con người.
- Con không hiểu bác nói gì ? Sao lời lẽ của bác khác ngày xưa ?
Ông Nghỉ ôn tồn nói với Hoàng :
- Bác vẫn là bác Nghỉ của con kia mà ! Còn chuyện bác nói với con là do bác học được đấy.
- Bác khác xưa nhiều lắm ! Con … Con không ngờ bác có những ý nghĩ như vậy ! Con không thể hiểu nổi .
Hoàng ôm đầu. Anh bứt tóc. Anh không hiểu hết được lời lẽ của ông Nghỉ. Anh bức tóc mãi. Tóc nằm trong tay, anh choàng tỉnh. Anh đang ngồi dưới gốc cây dương.
Cơn mơ đã qua. Chỉ còn lại mình anh. Anh chợt nghĩ con người sao vậy ? Cái đích thực của đời người, của cuộc đời này là cơn mơ ư ? Mơ giải quyết được gì ? Tất cả chỉ là sự ảo mị được cám dỗ bởi cái thằng người bi lụy.
Không lẽ không có cái đích thực của cuộc đời này ? Không lẽ cuộc đời này không có hạnh phúc ? Tìm hoài cho lời giải đáp, bỗng Hoàng reo lên: “ Đúng rồi ! Đúng là được sống, được làm việc, được yêu là những điều hạnh phúc ở trần gian này. Mình phải tạo ra hạnh phúc cho mình mới được”.
Ngoài kia tiếng cười đùa của bạn bè anh vẳng lại. Anh nghĩ thầm : “Chết cha ! Bọn chúng chờ mình, chắc chúng sẽ mắng mình thôi !”. Anh đứng phắt dậy, chạy trên cát, ra chỗ thuyền của bọn anh. Tiếng vọng từ biển: “ Hoàng ơi, ra đây mau lên ! “.
Hoàng bước nhanh trên cát …
10. Đêm .
Thuyền ra khơi. Hoàng và Hân ngồi bên nhau. Sóng êm. Sau thuyền là một cột sóng bạc trăng trắng. Cả hai đang hút thuốc. Thuốc làm họ tỉnh táo hơn. Đã khuya rồi mà Hoàng và Hân không ngủ được. Nằm trên thuyền lướt nhẹ trên biển, nhìn lên trời đầy chi chit sao di động. Thuyền của các anh di động. Cả bầu trời, tinh tú cũng di động. Và trong lòng biển từng đàn cá cũng di động. Mọi vật đều di động để sinh tồn .
Hân cựa mình hỏi :
- Mày chưa ngủ chứ Hoàng ?
- Ừ, tau không ngủ được .
Một lát sau, Hân chặt lưỡi :
- Hình như mẹ mày muốn mày lấy vợ phải không ?
- Ừ .
- Mày nghĩ sao về chuyện ấy ?
- Phải nghe lời mẹ thôi ! Vả lại, không lẽ sống độc thân đến già. Cuộc đời mà mày. Một mình mình sống sẽ sao đây ?
- Thế mày chọn được cô nào chưa ?
- Rồi .
Một sự kiện trọng đại đến với Hoàng. Hân không tin Hoàng có người yêu .
- Mày phét vừa chứ .
- Thật đấy.
Họ im lặng. Một lát sau, Hân hỏi :
- Ai đấy hở Hoàng ?
- Giang, em mày !
- Mày đùa đấy chứ ?
- Tau thật lòng đó mà !
- Gớm cho mày .
Sự im lặng trong đại dương. Những con sóng nhẹ nhàng. Thuyền vẫn cứ đi …
Hân thiếp ngủ. Hoàng vẫn không ngủ được. Anh đang nghĩ về cô em của Hân. Anh nhìn bầu trời khi hai ngôi sao xít lại gần nhau. Có phải hai ngôi sao kia là bản mệnh của anh và Giang ?
Tình yêu, anh thường nghĩ suy về nó. Những sự rung cảm của tuổi học trò có phải là đích thực của tình yêu ? Giữa lòng đại dương, anh cảm thấy nhỏ bé, ngợp giữa con nước mênh mông, nhưng anh vẫn thấy biển bao dung, có phải đó là tình yêu của dân biển đối với biển ? Anh yêu nghề biển, nhờ biển để sống, có thể đó là tình yêu biển ? Anh muốn nhảy ào xuống biển, hoà mình với biển. Dưới lòng biển là Thuỷ cung của Long Vương như trong truyện cổ ? Anh nhớ lại những gì mẹ anh đã kể với anh : “ Biển là mẹ của người dân chài con ạ . Biển nuôi dân biển. Tình yêu của biển mênh mông. Có hiểu hết biển mới có thể trở thành dân biển”. Và bà kể những chuyện về biển, về bí mật của biển …
… Những cột nước tung lên từ biển. Trận hỗn chiến giữa Cá Ông và cá mập làm khuấy động biển cả một vùng. Khi Cá Ông đi có quân lính theo hầu. Nào là tôm càng , nào là cá mực. Khi xáp trận, Cá Ông đánh rất hăng, thường là thắng cá mập. Chỉ khi nào đuối sức, cá mực mới tung hoả mù vào địch thủ, làm cá mập như lạc vào mê hồn trận, tôm càng giơ kiếm chém vào kẻ thù … và quân lính hầu cận phải đưa Cá Ông về nơi an toàn. Cá mập, mắt tối mù, thân bị chém nên phải bỏ chạy …
Ngư dân thường kính Cá Ông. Nếu Cá Ông bị sa lưới, họ cầu khẩn Cá Ông được thoát. Cá Ông lụy, họ cũng cầu khẩn và tìm cách đưa Cá Ông vào bờ chôn cất tử tế .
Dân biển tin tuyệt đối vào sự giúp đỡ của Cá Ông. Được mùa cá cũng nhờ Cá Ông. Thuyền gặp tai nạn Cá Ông thường tìm cách cứu thoát. Niềm tin ấy đã bám vào tận máu huyết của người dân biển. Thật là biển có quy luật riêng của biển.
Dù trời nắng ráo, dù thời tiết tốt lành, nhưng khi Cá Ông lụy thì thời tiết đột ngột thay đổi. Mưa trút xuống. Người ta cho rằng những giọt mưa là nước mắt của Trời đổ xuống khóc than Cá Ông đã từng nhiều phen cứu giúp con người. Và niềm vinh dự đầy ơn phước đối với người nào tìm thấy xác Cá Ông đầu tiên. Người ấy được làm trưởng nam, được để tang Cá Ông. Riêng con gái chưa chồng, nếu tìm được Cá Ông thì phải ở vậy để tang và không được có chồng.
Người ta đã xây những ngôi miếu nhỏ dọc bờ biển, đặt xương cốt Cá Ông để phụng thờ.
… Gần sáng, thuyền vẫn lướt. Nhìn mặt trời hửng đỏ như quả cầu bằng lửa được tạo hoá kéo lên, Hoàng kêu :
- Hân ! Dậy mau xem mặt trời mọc !
Hân choàng dậy. Tất cả người trên thuyền cũng choàng dậy. Trước mắt họ, mặt trời hiện rực rỡ. Sóng biển nhuộm màu vàng huyền diệu buổi bình minh. Mặt trời lên ! Ngày mới ! Phía sau thuyền, rất xa là quần đảo Hoàng Sa.
11. Cá về bến .
Bãi biển đầy những người tắm biển và những người đón cá về. Không gian trước mắt từng người là khoảng cách giữa họ và người bên cạnh.
Tiếng gọi nhau. Tiếng la hét vui mừng của trẻ con.
- Bớ anh em ơi! Cá nhiều ơi là nhiều .
- Sướng thật! Đợt này chắc sắm được ti vi đời mới rồi !
Giang đứng trong đám đông đứng chờ thuyền cá của anh mình. Những thuyền vào trước đã báo cho cô biết là thuyền của Hân sắp sửa vào bờ. Những con thuyền xăm xăm lướt. Kia rồi, thuyền của anh Hân kia rồi .
- Anh Hân ! Anh Hân! –Giang gọi to ra biển. Cô lấy nón vẫy vẫy.
Tiếng Hân từ xa vẳng vào :
- Giang, Giang, anh về đây !
Thuyền Hân cập vào bờ. Những con sóng như muốn kéo thuyền ra lại ngoài khơi. Anh em trên thuyền đã nhảy xuống nước dìu con thuyền đầy ắp cá vào bờ. Đầy những cá nục tươi xanh. Sướng thật ! Chắc là sẽ bán được nhiều tiền.
Người ta gánh cá thoăn thoắt toả đi các điểm. Cá tràn ngập các ngả đường. Đâu đâu cũng nghe tiếng rao : “ Cá đây! Cá nục đây ! ”. Nhiều người hứng chỉ bỏ một ngày công để mua hai chục cá . Mấy khi được dịp cả rẻ như thế. Họ kháo nhau : “ Ước gì quanh năm, suốt tháng cá nhiều như thế này thì cuộc sống đỡ biết mấy”. Các bà, các cô bán cá chỉ cười : “ Cũng nhờ trời cả thôi !”.
Đêm. Cá vơi trong khoang thuyền của Hân. Anh em đã về hết, chỉ còn lại Hân và Hoàng.
- Mày còn thuốc không? Tau xin điếu ! Hân lên tiếng .
Hoàng lục túi. Chỉ còn cái bao thuốc lá rỗng .
- Hết rồi ! – Cái bao bị bóp méo lại, bị quăng xuống một cách hờ hững.
Hân nói :
- Mày đứng đây, tau chạy vào quán mua nghe.
- Ừ, mày đi nhanh lên.
Hân đi, chỉ còn Hoàng bên chiếc thuyền. Anh ngồi xuống tựa vào thuyền. Đây là chuyến đi đạt kết quả. Anh cảm thấy phấn chấn Anh nhớ lại giấc mơ khi gặp ông Nghỉ. Ông đã dặn dò anh : “ Này, Hoàng con ! Không lẽ yếu đuối, bạc nhược trong mộng mị hoài hay sao ? Đừng tự hành khổ mình thế. Tương lai đang chờ con. Hãy dũng cảm lên, hỡi con cái của Lạc Long Quân ”.
- Nè thuốc đây ! - Hân chạy đến bên, chìa thuốc .
Hoàng đưa tay lấy thuốc, anh chìa tay tiếp xin tí lửa.
- Chắc tau tiếp tục đi biển thôi Hân ạ.
- Dân biển mà không đi biển thì lấy gì sống hở mày ?
- Đúng ! Chỉ có nghề nghiệp mới đem lại sự sống cho con người. Có lẽ phải thế không Hân ?
- Ừ, phải thôi. Không nghề thì buồn biết chừng nào !
Hút chừng nửa điếu thuốc, Hân thấy cồn cào trong bụng .
- Tau đói rồi. Mầy ở đây giữ thuyền, tau về kiếm cái gì ăn đã.
- Ừ, mày ăn nhanh lên, rồi ra ngó thuyền, tau còn về ăn cơm nữa chứ.
- Được thôi! – Hân vội chạy về nhà .
Hoàng ngồi nhìn ra biển. Trên bờ thưa thớt người. Những con thuyền nằm yên nghỉ trên bãi. Và ngoài kia, những con thuyền khác vẫn còn đánh cá. Đèn sáng ở đường chân trời đẹp như một thành phố nổi trên sóng nước.
Trở lại với biển, trở lại với nghề của cha ông truyền lại là niềm vui trong lòng anh. Biển reo những con sóng trong lòng anh. Biển hát những âm thanh vượt thời gian trong lòng anh. Âm thanh của biển là âm thanh của đất nước Lạc Hồng.
- Anh Hoàng ! – Giang đã đến bên Hoàng từ nãy giờ, gọi anh - Anh Hân đâu rồi ?
- Hân đã về rồi .
- Mình anh ở lại sao ?
- …
- Anh về ăn cơm tối đi !
- Ngồi xuống đây đi Giang
- Em…
Hoàng kéo tay Giang ngồi xuống. Ngoan ngoãn, dễ thương, Giang ngập ngừng ngồi bên Hoàng. Hoàng kéo Giang sát vào người. Giọng Giang như lạc hẵn :
- Anh … Anh Hoàng …
Nụ hôn bất ngờ ! Trăng mười chín hé phía chân trời biển. Cả biển đêm bắt đầu nhuộm ánh trăng chiếu sáng người dân biển, chiếu sáng nụ hôn ngập ngừng của trai gái biển…
- Giang, anh yêu em !
Giang cúi đầu. Hơi thở của cô hơi hổn hển. Mùi cá còn phảng phất vị mặn của biển, còn đọng sót lại đâu đây. Tiếng Hân vọng đến :
- Hoàng ! Để thuyền đó cho tau , về đi .
12. Đêm trăng.
Hoàng ngồi ôm cây ghi-ta. Chỉ một mình anh trước biển. Anh nhẹ khảy đàn. Anh cất tiếng hát về tình yêu một thời đã qua. Bài ca về tình yêu, nỗi đau xót về tình yêu thành vết ứa trong lòng, anh nào quên được. Tiếng đàn hòa sóng biển. Tiếng sóng vỗ bờ thổn thức, tiếng lòng anh hòa trong bọt sóng…
Anh chờ em những đêm trăng sáng vỡ tan
Gặp làm chi hỡi em
Khi tình mình thành cọng rơm trong biển
Đâu là hoa anh hái tặng em
Cả biển xanh là nơi anh trú ngụ. Anh mênh mang theo từng con sóng vỗ bờ. Trăng trên trời như xoa dịu nỗi đau anh. Trăng trên trời chứng giám tình anh.
Trăng lặn dần sau đỉnh Trường Sơn. Tiếng sóng vẫn rì rầm như thuở khai thiên lập địa.
Mặt trời lên rồi sao ? Đêm qua rồi sao ? Anh thức canh tình anh trong biển. Mặt trời lên, biển Đông vẫy sóng đón chào.
Ngoài kia thuyền ai ra khơi. Trong anh, lời ca “Đây Trường Sa, kia Hoàng Sa…” xôn xao hòa cùng biển mặn.
Đà Nẵng, 1991-2009
Phan Trang Hy
Trích từ tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
BẾP XƯA
Bao năm chắt chiu giành dụm, An sửa lại căn nhà cho ra dáng vẻ nhà được nâng cấp từ chỗ ổ chuột thành nhà cấp bốn có đôi chỗ áp gạch men. Đối với sức hắn, sửa nhà được như thế quả là khá. Cũng theo lời hắn, khi sửa nhà, may mà có bạn bè và học trò cũ của hắn giúp. Người thì cho xi măng cả tấn, người thì cho cả chỉ vàng, người thì cho mượn lâu dài khi nào có thì trả, chớ một mình hắn làm gì có đủ ngân khoản để tu sửa căn nhà cho có dáng vẻ dễ nhìn theo cái kiểu “lấy phấn dồi mặt”. Ngày làm xong nhà, hắn làm bữa tiệc liên hoan để đãi thợ. Hắn có mời dăm ba người bạn thân đến dự. Bữa tiệc mừng có nhà mới, thế mà hắn nói ấp a ấp úng, đại khái là hắn cảm ơn, biết ơn bè bạn, người thân, biết ơn anh em thợ đã giúp hắn có chỗ ở. Và rồi, mọi người cùng nâng cốc chúc mừng tân gia đại hỷ.
Sau tiệc, hắn đi lên đi xuống mỉm cười mừng là có nhà mới - mừng một cách không thể ngờ. Rồi hắn xấu hổ sao hắn lại xúc động muốn khóc trong bữa tiệc mừng. Mà thôi kệ ! Có thì mừng, mừng mà khóc thì có sao đâu. Âu là có mà được khóc cũng sướng hơn không có mà gượng cười.
*
Dần dần An làm ăn khấm khá. Nhà cửa như đẹp thêm ra. Vật dụng trong nhà thích nghi với lối sống hiện đại. Nào là xa lông, nào là đầu đĩa CD… Cái bếp cũng hiện đại hẵn lên, cũng sang hẵn lên, bóng lộn, trắng sáng những gương, những đồ dùng bằng inox. Cuộc sống nhộn nhịp như len vào tận bếp.
Nhắc điện thoại, vợ hắn gọi : “A lô ! Cửa hàng gas đấy à ? Xin làm ơn chở đến nhà K223/18 NVT một bình 13 ký”. Có cái bếp hợp với “thời đại” quả là hạnh phúc cho vợ hắn. Nếu không có thằng Anh khích thì chưa chắc gia đình hắn có cái bếp sang trọng. Trong một lần ngồi uống cà phê, thằng Anh đã chọc hắn : “Này An ! Mày biết đó, thời buổi này mà chưa sắm được bếp gas thì cũng tội cho mấy bả ở nhà. Thương vợ thì phải có bếp gas. Không sắm cho vợ thì không được. Chỉ có bếp gas mới giải phóng được phụ nữ”. Nhìn cái miệng dẻo quẹo của thằng bạn như đang quảng cáo gas, hắn gật đầu : “Được thôi ! Phen này chắc tau phải mua bếp gas ga lăng vợ”. Nâng ly cà phê lên , hắn tiếp : “Nào ! Xin nâng ly mừng sẽ có bếp gas !”.
*
Vợ chồng hắn có caí tật đón Tết là phải có chút bánh tét bên cạnh cành mai vàng. Trước đây, mỗi khi Tết đến, vợ chồng hắn được hai bên ông bà già cho bánh tét cũng đủ dùng. Nhưng từ ngày vợ biết gói bánh thì gia đình hắn có thêm cái thú nấu bánh tét ngày Tết.
Mua lá chuối ở chợ về, vợ hắn khoe ngay : “Lá đợt này đẹp mà rẻ nữa. Có lẽ bánh tốt thôi”. Cô ấy trải lá ra hong. Vừa làm, cô ấy vừa nói : “Anh lo kiếm củi, làm bếp, chuẩn bị cho em nấu nghe !”. Hắn cười : “Được thôi ! Xin sẵn sàng !”.
Hắn tìm củi. Hắn tìm khắp nhà xem có củi gỗ không. Hắn tự cười cho sự đãng trí đang bắt đầu chớm. Làm gì có củi gỗ khi nhà hắn dùng bếp gas.
Thế rồi, hắn lấy xe đi mua củi. Hắn nói với vợ trước khi dắt xe ra cổng : “Anh đi mua củi đây. Mà mua bao nhiêu là vừa ?”.Vợ hắn lườm : “Cái ông này ! Thì mua cho đủ nấu !”. Hắn chép miệng thầm nghĩ : “Biết bao nhiêu là đủ. Cứ ước chừng mua nhiều một chút cũng được. Nhiều thì đun nhiều, có sao đâu”…
Ba viên gạch, sẵn sàng củi lửa là cái bếp nấu bánh đón Tết hoàn thành. Hắn phủi tay, nói với vợ : “Anh làm xong rồi ! Anh nghỉ tay một lát. Anh đi uống cà phê nghe em !”. Vợ hắn không ngơi tay gói, nói :“Nhanh nghe anh ! Em xong ngay bây giờ !”.
*
Ngọn lửa bùng lên ! Cái bếp nấu bánh tét bùng lửa lên ! Bếp sáng rực trước sân nhà. Ở phố, bếp nấu bánh ngày Tết làm ngay trước sân nhà, hay thật ! Cả năm mới có một ngày bếp đỏ hồng ngọn lửa trước sân nhà, đỏ hồng cả căn nhà.
Ngồi bên bếp, lâu lâu thêm ít củi, châm ít nước vào nồi – nhiệm vụ của hắn chỉ có thế. Hắn phải thức đêm canh nồi bánh tét. Hắn chuẩn bị mọi nhu cầu để thức đêm. Nào là một phin cà phê, nào là một bao thuốc lá, nào là hai gói mì ăn liền…, tất cả như sẵn sàng cho đêm nấu bánh.
Hắn nhìn đồng hồ. Đã một giờ rưỡi sáng. Hắn thêm một ít củi vào bếp, châm một ít nước vào nồi. Dù đã uống hết ly cà phê, hút hết 9 điếu thuốc, thế mà hắn vẫn cứ ngáp. Nhìn quanh, hắn thấy mọi vật như ngủ. Chỉ có cái bếp bùng ngọn lửa là thức cùng hắn. Dựa người trên chiếc ghế xếp, hắn mơ màng theo ngọn lửa hồng. Trước mắt hắn, ngọn lửa hồng bùng lên. Từng đoàn người đang đi qua trước mặt hắn. Tiếng ngựa hí, tiếng trống, tiếng thanh la vang động cả góc trời. Ngọn cờ hồng phấp phới tung bay. Trong tâm tưởng, hắn biết chắc đó là nghĩa quân Tây Sơn đang hành binh ra Bắc. Những đòn bánh tét theo đoàn quân. Những bếp di động theo đoàn quân Bắc tiến. Trong ngọn lửa hồng, hắn thấy thanh gươm nghĩa của Nguyễn Huệ sáng ngời chỉ thẳng phía quân thù, thúc nghĩa binh giành thắng lợi. Trong ngọn lửa hồng, hắn thấy hoa đào đất Bắc ra hoa. Thăng Long hò reo thắng lợi. Cả dòng người hò reo trong chiến thắng. Hắn cũng hò reo…Hắn giật mình. Hắn ngỡ ngàng. Hắn vươn vai đứng dậy thêm củi vào bếp, châm nước vào nồi.
Hắn ngồi nhìn ngọn lửa. Ngọn lửa đã thắp sáng lại chuyện của ông ngoại hắn. Chuyện đã lâu rồi, rất lâu. Đại khái là ông ngoại hắn, đội trưởng đội du kích thôn Quảng Đại ở vùng B, Đại Lộc, có chút võ nghệ. Những năm đầu của thập niên 1960, ông hắn tổ chức cho thanh niên, trai tráng trong làng tập võ gậy vào những lúc chiều tối. Sau này hắn mới vỡ lẽ, tổ chức như vậy, là để đánh lại bọn lính từ xã xuống. Trận lụt năm Thìn 1964, ông hắn cùng du kích bơi ghe cứu nhiều gia đình sắp bị trôi, trong đó có mẹ con hắn.
Một đêm giáp Tết năm Kỷ Dậu 1969, ngoại hắn ngồi nấu bánh tét. Đêm ấy, cả gia đình ngủ say. Chỉ còn một mình ông thức. Ông lụi cụi thêm ít củi, châm ít nước. Ông canh chừng nồi bánh…
Một tiếng nổ khủng khiếp. Cả nhà ù tai. Đại bác từ Kiểm Lâm, từ Ái Nghĩa vẫn bắn sang. Khói bụi bay mù trời. Ông hắn không còn. Cả cái bếp, cả nồi bánh cũng không còn…
*
Mắt hắn nhưng nhức. Sống mũi hắn cay cay. Hắn thêm ít củi vào bếp, châm ít nước vào nồi. Hắn ngồi nhìn ngọn lửa. Bếp xưa chờn vờn, chờn vờn…
Chợt có tiếng vợ hắn : “Bánh chín chưa anh ? – Cô ấy đến bên cạnh hắn nói tiếp - Thôi, anh đi nghỉ đi ! Để em ngó cho”.
Vợ hắn cũng thêm ít củi vào bếp, châm ít nước vào nồi.
Bếp xưa đỏ hồng ngày Tết !
Năm 2000
Phan Trang Hy
Trích từ tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
QUA RỒI ĐÊM TRUNG THU
Gần đến Trung thu. Bọn trẻ con đứa nào cũng náo nức đón chờ. Không phải chúng chờ bánh kẹo, chờ phá cỗ. Mà chúng chờ được làm lân, được múa lân.
Thằng Bảo tập hợp bọn trẻ lại phân công làm lân. Đứa mua dây thép, đứa kiếm tre làm khung đầu lân. Đứa thì tìm giấy dán, đứa thì tìm sơn xanh, sơn đỏ…Rồi đầu lân hoàn thành. So với lân bán ở thị trường thì lân của chúng không đẹp bằng, nhưng được cái là tự chúng làm thì mới thú.
Bọn chúng bỏ ra ba đêm để tập múa. Tiếng trống lân làm ồn cả xóm. Bà Sáu thường có tính không ưa ồn ào vì bà đang chữa bệnh, thế nhưng, những ngày này bà như khoẻ ra. Bà cười nói với bọn trẻ. Bà lại xuất tiền hưu của bà thưởng cho bọn chúng gói quà to tướng để chúng bồi dưỡng tập múa. Mấy đứa con nít hay làm nũng, giờ thì cũng hết, không cần dỗ, cũng ăn nhanh để còn kịp xem lân tập múa. Đến nhà cô Hải mở trò chơi điện tử, ngày thường đông bọn trẻ đến chơi, còn giờ thì vắng tanh, những chiếc máy được giải lao. Cả xóm xem bọn trẻ tập múa. Cả xóm ồn theo tiếng trống. Cả xóm vui theo tiếng trống. Cả xóm rộn ràng theo tiếng trống.
Trăng lên. Hoà trong ánh điện là ánh sáng bập bùng của những ngọn đuốc. Tiếng trống rộn ràng như mờị mọc mọi nhà mở cửa đón lân. Tiếng trống đánh thức tuổi già về với trẻ con ; đánh thức đàn ông, đàn bà về với tuổi vô tư ; đánh thức con trai, con gái về tuổi mới lớn ; đánh thức cả trời cổ tích về mừng Thạch Sanh chém được Xà tinh…Tiếng trống đánh thức giấc ngủ cả năm ở cái xóm này.
Lân đi từng nhà. Không nhà nào từ chối bọn trẻ. Bọn trẻ như làm chủ cả xóm. Lân của xóm khác không dám đến đây múa. Phần vì sợ lân ở đây đánh, phần vì không có ai mời múa. Hầu như đã thành lệ, lân xóm nào thì múa ở xóm đó, trừ trường hợp những đoàn lân chuyên nghiệp.
Trăng đã lên cao. Bọn trẻ đã múa hết các nhà trong xóm. Bọn chúng mệt. Từng ngọn đuốc rụi dần. Cả xóm hầu như không còn đoái hoài đến chuyện múa lân.
Gần hết rằm. Thi thoảng từng tiếng trống rời rạc ở đâu đó như nuối tiếc đêm rằm Trung thu.
Bọn trẻ tập trung ngoài ngã ba. Bọn chúng kháo nhau :
- Anh Bảo ! Múc chè ra ăn đi ! Múc chè ăn đi !
Bọn trẻ đã chuẩn bị chè hồi chiều tối. Lệ thường, năm nào cũng vậy, sau khi múa lân xong là chúng ăn chè quanh lân được đốt. Thằng Bảo nói như ra lệnh :
- Mấy đứa bay đợi đốt lân đã.
Thằng Nhật mới tham gia múa lân lần đầu, thắc mắc hỏi :
- Sao đốt uổng thế, anh Bảo ? Để dành sang năm múa.
Một thằng như từng trải, nói :
- Đốt để lấy hên. Để lại xui lắm. Sang năm làm cái khác.
Bọn chúng chẳng biết có xui hên không. Nhưng thằng Bảo thì biết rất rõ là mỗi lần gần tới tết Trung thu, được làm lân, được múa lân là niềm vui. Bỗng thằng Bảo thở dài :
- Đốt đi bay !
Ngọn lửa bùng lên. Từng tiếng húp xột xoạt quanh những chén chè. Bọn trẻ nhìn ngọn lửa rụi dần. Thằng Bảo nói với bọn trẻ :
- Bọn bay nghe tau nói đây. Trung thu này, sau khi làm đầu lân, mua dầu lửa, mua nước uống, nấu chè, nói chung là mọi thứ mua sắm, thì còn được hơn năm chục ngàn. Số tiền này, tau giao lại cho thằng Long giữ để sang năm làm đầu lân mới.
Thằng Nhật lên tiếng :
- Sao anh Bảo không giữ để sang năm làm ?
Thằng Bảo giọng buồn buồn :
- Tau lớn rồi ! Sang năm tau không còn làm lân, không còn múa lân nữa đâu.
Bọn trẻ nhao nhao :
- Còn chè không ? Cho thêm chén !
Trăng xuống dần…
Năm 2000
Phan Trang Hy
Trích từ tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
KÉN CHỒNG
Âu Nương vén mái tóc dài quá gót, ngửa mặt nhìn vầng trăng, rồi cúi đầu, thẫn thờ. Nàng chép miệng thở dài. Tiếng thở dài nghe như tiếng chim uyên gọi bạn, như tiếng nuốt nước bọt của cô gái chửa thèm chua, như tiếng lòng chinh phụ ngóng chồng, như tiếng đàn Kiều tìm Kim Trọng… Tiếng thở dài của nàng gọi thị nữ Ngọc Hoa đến. Ngọc Hoa chắp tay, cúi đầu khẽ bẩm:
- Dạ thưa! Công chúa cần gì ở tiện nữ!
Quay lại nhìn, Âu Nương nói :
- Ngọc Hoa, em đó hả? - Tiếng nàng run run – Em… Em có thể… giúp ta được không?
Cung kính, Ngọc Hoa thưa :
- Dạ! Em có thể giúp gì cho Công chúa?
Vẫn gương mặt thẫn thờ, Âu Nương nói:
- Em biết đấy! Vua cha bắt ta phải lấy chồng. Nhưng ta biết lấy ai bây giờ? Em có cách gì giúp ta không?
Ngọc Hoa vẫn lặng thinh. Âu Nương van nài:
- Em giúp ta đi! Giúp ta đi!
Ngọc Hoa ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Thưa Công chúa! Theo em nghĩ đàn ông con trai thì không thiếu gì trong trời đất, nhưng phải chọn sao cho xứng, kẻo uổng tuổi xuân, kẻo uổng với cương vị.
Mừng rỡ, cầm tay Ngọc Hoa, Âu Nương nói:
- Em nói hợp ý ta lắm. Nhưng phải làm thế nào đây?
Ngọc Hoa thầm thì bên tai Âu Nương. Mặt mày Âu Nương rạng rỡ lên…
*
Tin Công chúa kén chồng lan truyền khắp chốn. Tiêu chuẩn làm chồng Công chúa yết thị mọi nơi. Đại loại tuổi tác từ 18 đến 70, không dị tật, không bệnh hoạn, đặc biệt phải là kẻ có học vấn và đạo đức mẫu mực.
Ngày hội kén chồng của Công chúa ầm ĩ, náo nhiệt. Đủ loại con trai đàn ông đến dự thí để đạt ngôi vị Phò mã.
Một bức tượng giống hệt Âu Nương được chưng bày giữa Ngọ môn để bàn dân thiên hạ chiêm ngưỡng nhan sắc có một không hai trên thế gian này.
Mọi người đến. Đàn ông có. Đàn bà có. Trẻ con và các cụ cũng có. Ai nấy đều trầm trồ:
- Thật là tuyệt thế giai nhân!
- Quả là chim sa cá lặn!
- Ồ! Lá ngọc cành vàng!
Có kẻ thấy tượng nàng đã phách lạc hồn xiêu. Có kẻ đứng trân như người mất vía. Sắc đẹp của bức tượng đã cuốn hút mọi người. Ai cũng cảm thấy mình quả là vinh hạnh được nhìn thấy tượng Công chúa. Bọn đàn ông con trai, có kẻ nhìn thấu tận bên trong tượng. Có kẻ nhắm mắt mường tượng ôm tượng truy hoan. Ai cũng cho rằng chỉ có mình mới xứng là Phò mã. Mọi người chen lấn, tranh giành nhau trước cổng Ngọ môn.
Bên trong Ngọ môn có một căn phòng làm nơi kén chọn Phò mã. Âu Nương trực tiếp kén chọn.
Thời gian kén chọn là từ nửa đêm đến gà gáy sáng. Đèn đuốc sáng trưng cả khu hội. Trước cửa phòng, có bốn thị nữ cầm thương kiếm cung đao uy nghi, lẫm liệt.
Từng hồi chiêng trống vang lên là có người vào ứng thí…
Đêm này qua đêm khác. Từng hồi chiêng trống cứ vang lên. Nhưng chẳng có ai đạt ngôi vị Phò mã.
Âu Nương nằm trên giường. Như con gà mái đến thời cương trứng, nàng khoác bộ áo quần tơ nhện, đôi mắt thẫn thờ, thở dài chờ đợi từng hồi chiêng trống điểm.
Vẫn tơ nhện nhẹ che dáng ngọc, vẫn nằm chờ kẻ xứng lứa vừa đôi, nước mắt nàng ướt cả gối. Thấy vậy, Ngọc Hoa thưa:
- Bẩm Công chúa! Tại sao Công chúa khóc?
Âu Nương đứng lên. Cả thân thể nàng như thắp lửa. Nàng khóc to hơn :
- Không có ai là đàn ông con trai cả! Tất cả là gỗ đá! – Nàng đập ngực khóc kể tiếp - Đàn ông con trai mà thế à? Đàn ông con trai mà lên giọng học vấn, đạo đức khi nhìn ta như thế này à? Sao bọn họ không biết… Ôi! Ước gì có tiếng gà trống gọi mái bên tai ta!...
Cơ thể nóng bừng, mềm nhũn, Âu Nương phịch xuống giường, khóc rấm rứt…
Tháng 7 - 1994
Phan Trang Hy
Trích từ tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
IM LẶNG CỦA THIỀN SƯ
1. Trời vần vũ. Bao tinh cầu xoay chuyển. Chỉ gió, chỉ tiếng gầm rú của chúng sinh. Không thể nhìn thấy mọi vật. Chỉ một màu đỏ ối trên trời. Mặt trăng biến thành quả cầu lửa.
Ađam lăn lộn trong cõi hỗn mang. Bỗng hai thằng người tách ra từ Ađam. Chúng cãi nhau giành phần thắng.
Nhiều con thú cười nói như người. Rồi tất cả thú hóa người nhảy múa vui mừng tru lên những giai điệu cuồng mê trong cõi vô minh. Những gương mặt thú biến mất trong phép của quỷ thần tích tụ. Chỉ có người và người.
- Hoan hô ! Hoan hô ! Đánh nữa đi !
- Đả đảo ! Đả đảo !
Đám đông cuồng loạn. Vang trong cõi vô minh tiếng hò hét ầm ĩ điệu nhạc chiến tranh.
2. Bên gốc đại thụ, ánh hào quang tỏa sáng. Tưởng chừng như các thiên thần đang chào mừng ơn phước đến với thế gian. Thiền sư đang kiết già. Ngài dùng điển quan sát ba ngàn thế giới. Đâu đâu cũng thế !
Bên tai vọng lên giọng của hai thằng người giành phần thắng, Thanh Văn bạch với thiền sư :
- Thưa sư phụ ! Có chuyện không hay.
Thiền sư hỏi :
- Ông xem họ đang làm gì vậy ?
Cung kính, Thanh Văn bạch :
- Thưa sư phụ ! Nếu dùng thần lực của con tính đếm trong nghìn kiếp mới có thể biết bọn họ làm gì.
Thiền sư bảo :
- Ông hãy tính đếm đi !
Nói xong, ngài nhắm nghiền mắt.
3. Âm nhạc. Tiếng trống, tiếng thanh la, tiếng kèn đồng, tiếng tù và, tiếng đàn, tiếng sáo…Vũ điệu. Tango, chachacha, lambađa, hiphop…Ánh sáng. Xanh, đỏ, tím, vàng, đen…Tiếng la hét hòa nhịp nhàng với ngàn âm vũ điệu :
- Hãy lên án tên giết người !
- Hãy giết hết bọn khủng bố !
- Hãy bắt tên tội phạm chiến tranh !
- Giết nó đi để trừ hậu hoạn !
- Hoan hô ! Phe ta đã thắng !
- Đả đảo quân khát máu !
Đám đông hò hét ủng hộ. Đám đông hò hét phản kháng. Hỗn loạn ! Hỗn độn cảnh hỗn chiến !
Thiền sư thiền định.
4. - Bạch sư phụ ! - Thanh Văn hốt hoảng gọi thiền sư.
- Gì thế ?
- Thưa sư phụ ! Bọn người mê loạn trong cảnh đánh nhau.
- Theo ông, chúng ta phải làm gì ?
- Theo con nghĩ chúng ta phải dùng phép màu tiêu diệt bọn họ.
Nụ cười hiền hậu nở trên môi, thiền sư ôn tồn nói :
- Đức háo sanh là căn nguyên tạo nên trời đất, muôn vật. Kể cả tính
Phật cũng bởi đức háo sanh mà ra. Ta nhân danh Phật mà tru diệt chúng sinh ư ? Không ! Ta phải dùng pháp mà giải thoát chúng sinh.
- Thưa sư phụ ! Người dùng pháp gì ?
Thiền sư im lặng.
5. Eva múa khúc nghê thường. Nàng mơ màng hát khúc tình ca bất tử. Nàng trút bỏ xiêm y. Nàng khỏa thân khoe vẻ đẹp diệu kỳ của tạo hóa ban tặng.
Những cô gái bắt chước Eva.
Eva cùng những cô gái xuân trẻ tắm mát cơ thể trong các dòng sông. Các cô khoe thân thể. Các cô đến giữa bầy người cuồng loạn.
Đám đông im bặt. Hai thằng người trở thành Ađam như lúc mới sinh. Bọn đàn ông làm theo Ađam.
Mặt trăng dịu dàng tỏa sáng.
- Bạch sư phụ ! - Thanh Văn mừng rỡ thưa - Chúng sinh chung sống
hòa bình rồi !
Thiền sư im lặng…
Năm 1996
Phan Trang Hy
Trích từ tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009
Truyện ngắn cuả Phan Trang Hy
BÁN CHỮ
- Tôi yêu cầu các em phải đi học thêm! – Quắc mắt nhìn lũ học trò chẳng hiểu mô tê gì, tôi nói tiếp - Các em có nghe tôi nói không?
Vẫn im lặng.
Trống đổi tiết. Tôi hết giờ dạy. Xuống phòng hội đồng nhìn đồng nghiệp cười nói vui vẻ, tôi tự trách mình sao cứ để cuộc sống đến bây giờ vẫn khốn đốn. Không biết có phải cái chất tiểu tư sản làm bản tính tôi ngại khó, ngại khổ trong việc cạnh tranh để sinh tồn hay vì sỉ diện?
Rời khỏi trường, đầu óc tôi miên man với những nghĩ suy gần như là đốn mạt đang gặm nhấm linh hồn tôi. Tôi quyết định dạy thêm để tồn tại. Phải bằng mọi giá bắt buộc lũ học trò đến nhà tôi học thêm. Phải bằng mọi giá, mọi giá mới được…
Dắt chiếc xe đạp vào nhà, tôi cất tiếng lấy lòng vợ:
- Có chuyện gì cần anh làm không nào?
Im lặng.
- Em mệt hả? Cứ nghỉ cho khỏe. Mọi chuyện để đó, anh làm cho.
Vợ tôi cất tiếng:
- Tôi ở nhà là để phục vụ anh chắc!
Tôi sững sờ:
- Ơ hay! Sao bữa nay em nói vậy? Có khi nào anh coi thường em đâu?
- Tôi chán cảnh tù túng này rồi! Nhờ anh đi xin việc, anh cứ khất hẹn… Tôi đi làm để mình tôi ăn chắc?
Tôi xẵng giọng:
- Em không biết anh chẳng quen thân ai ngoài lũ học trò. Vả lại, em đã lớn tuổi, cơ quan, xí nghiệp nào nhận người quá tuổi như em?
- Tôi già rồi chứ gì? Ờ! Tôi già rồi, hèn gì…
Bữa trưa hôm ấy, tôi đắng cả cuống họng. Cơm nuốt chẳng trôi. Hai đứa con tôi lại thúc bên tai tôi:
- Ba! Cho con tiền nộp học phí.
- Ba! Cho con tiền mua vở.
Ăn cơm xong, tôi lên giường nằm. Đầu óc tôi cuốn theo cơn lốc nghề nghiệp.
Trước đây, khi còn trẻ, tôi đâu có tính toán phải làm nghề nọ, nghề kia đâu… Được vào trường sư phạm, tôi vẫn chưa có khái niệm về nghề dạy học. Đơn giản là tôi được đọc Tố tâm của Hoàng Ngọc Phách. Thế là tôi muốn trở thành người cầm bút và dạy học. Việc đời cứ tưởng êm xuôi theo mộng ước của mình, thế nhưng đời đâu là ly nước trà cúng, mà đời là biển lớn khi tôi lao vào cuộc sống để sinh tồn.
Rồi xí nghiệp chỗ vợ tôi làm bị giải thể. Vợ tôi thành người thất nghiệp và biến thành người nội trợ hay nói. Không biết có phải không có việc làm, người ta thường tạo ra cớ để nói cho quân bình trạng thái tâm thần?
*
Tôi mở lớp dạy thêm như bao đồng nghiệp khác. Tôi dạy thêm văn. Chứ còn cách nào khác để kiếm thêm tiền trong thời buổi cạnh tranh này.
Giờ trả bài tập làm văn, các học sinh nhìn tôi ái ngại. Rồi, em lớp phó học tập đứng lên nói:
- Thưa thầy! Sao điểm cả lớp ít thế, thầy?
Tôi được dịp tấn công:
- Tại các em không chuẩn bị bài kỹ. Phải đi học thêm mới có thể tiến bộ! Các em nghĩ xem, ăn vào nó không nở bề dọc thì nó nở bề ngang. Học thêm thì nó cũng thế!
Tôi vừa dứt lời, cả lớp nhao nhao:
- Thầy! Thầy dạy thêm cho chúng em đi thầy!
Rồi thầy trò chúng tôi ngã giá về việc dạy học thêm.
Lòng tôi mừng khấp khởi. Về nhà, tôi quên cả cơm trưa. Tôi hì hục một mình kê dọn lại bàn ghế để làm công việc dạy học theo nghĩa của nền kinh tế cạnh tranh lấy đồng tiền làm thước đo mọi giá trị.
Học trò đến đông. Không đủ chỗ ngồi. Các em phải đứng mà học thêm.
Tôi dạy bày tỉ mỉ, rất chân thành với các em. Rồi… cứ thế… ngày lại ngày…
*
Lại đến giờ các học sinh nhận lại bài tập làm văn. Các em xem lại các lỗi tôi đã phê vào bài làm. Có tiếng xì xào. Tôi đập thước trên bàn hỏi:
- Làm gì mà ồn thế?
- Thưa thầy, bài em làm giống như bạn Tuấn mà bạn lại nhiều điểm hơn em? - Sơn đứng dậy kiện. Sơn là học sinh không đi học thêm môn văn.
- Thế, em mấy điểm? Tuấn mấy điểm?
- Dạ! Em được 4 điểm, còn Tuấn được 8 điểm.
Tôi nghiêm mặt, đập thước xuống bàn, nói to:
- Có thật không? Đem bài lên cho tôi xem nào!
Đối chiếu hai bài của Sơn và Tuấn: giống nhau, không sai một tí nào, giống như bài văn tôi đã dạy thêm.
Tôi bán chữ. Tôi bán cháo phổi. Tôi cũng bán dần lương tâm nhà giáo… Tôi ấp úng nói:
- Thầy… thầy xin lỗi! Thầy lộn…
Tôi cúi mặt, sửa điểm cả hai bài. Cả hai bài đều đạt điểm 2. Rồi tôi tuyên bố:
- Thầy huỷ bài này. Không lấy điểm vào sổ. Thầy ra lại đề khác cho các em. Chúng ta phải làm lại! Chúng ta phải làm lại. Cả thầy và các em. Các em hiểu không?
*
Tôi bước ra khỏi phòng học. Sân trường đầy nắng mai rực rỡ. Những con chim sẻ thanh thản ríu rít hoà tiếng cười của lũ học trò trong giờ ra chơi.
Tháng Tư, 1995
Phan Trang Hy
(trích từ tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009)
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
KHỎA THÂN
Vứt cây cọ xuống nền, nhìn bức ảnh toàn thân vừa hoàn thành, hắn cười thích chí : “Ha ha !...Phen này, ngươi phải chết ! Ta sẽ trả được mối hận này !”.
Bức ảnh toàn thân của cô gái được thu gọn trong diện tích 40cm x 52cm. Cả thân hình cô gái trần truồng. Nước bọt trào trong miệng, hắn lườm lườm nhìn bức ảnh như muốn ăn tươi nuốt sống. Cô gái trong ảnh nhìn lại hắn cười như thách thức : “Ngươi có gan thì giết ta đi ! Xem ta chết hay ngươi chết ?”
- Ngươi phải chết ! - Hắn cười khẩy, thu cả hình ảnh cô gái vào tận não, mắt lim dim.
*
Mười năm trước, hắn là anh chàng sinh viên văn khoa điển trai, thông minh. Hắn thuộc lòng lời lẽ từ cổ chí kim về tình yêu trai gái, coi đó như thứ vũ khí lợi hại để tán tỉnh các cô gái. Nhiều nữ sinh viên đem lòng thích hắn. Điều đó làm cho hắn nghĩ chính hắn là trung tâm của thế giới đàn bà.
Dù được nhiều cô thích, nhưng hắn chỉ đem lòng yêu Kim Thị, hoa khôi Đại học Huế. Thế mà cô ta vẫn một mực trơ trơ trước lời lẽ đầy hoa mỹ của hắn. Hắn tức chết đi được. Rồi khi nhận bằng cử nhân, hắn thức một tháng tròn viết nhật ký. Đại để, hắn giới thiệu được một phần tiểu sử của chính hắn.
Tên thật của hắn là Trần Ai. Chả là khi sinh hắn, mẹ hắn rên la suốt ba ngày ba đêm mà không rặn hắn ra được. Cuối cùng, nhờ bà mụ làm phép, hắn cất tiếng cười lớn, trút được lớp vỏ hỗn mang để sống trong trời đất.
Cái tên cúng cơm, hắn cảm thấy thế nào ấy. Thế là hắn lục hết các từ điển ghi tên các danh nhân thế giới để tìm một biệt danh cho xứng với sự ra đời của một con người chỉ biết cất tiếng cười chào đời. Cuối cùng, hắn chọn một cái tên không trùng tên của bất cứ ai trong từ điển mà trọn vẹn được các mẫu tự la tinh. Hắn làm lễ đặt tên, có mời tất cả các bạn gái đến hỉ hả.
Khi nâng cốc chúc mừng, với nụ cười thiện cảm, hắn tự giới thiệu : “Thưa quý cô ! Hôm nay là lễ đặt tên mới của tôi. Xin quý cô từ nay gọi tôi là A Zét.”.
Có tiếng một cô gái : “Sao lại là A Zét ? Sao không là một tên khác ?”.
Hóm hỉnh cười, hắn thốt : “Thế mới gây được ấn tượng !”.
*
Rồi Kim Thị lấy chồng như một quy luật. Cậu cử A Zét thất tình. Trời đất như muốn sụp. Nhưng rồi, hắn phải thở, phải ăn, nên hắn cứ phây phây mà sống. Từ chỗ buồn, hắn đâm ra bực, rồi trở thành tức, thành giận, thành hận, thành thù cô Kim Thị. Hắn không lấy được cô thì phải trả thù. Hắn tìm cách giết cô ta mà không bị luật pháp trói buộc. Hắn tầm sư học đạo để thực hiện ý định đó cho kỳ được. Dạy cho hắn đủ các bậc thầy, nhưng cuối cùng hắn chọn thầy dạy vẽ làm minh sư trong ý đồ phục hận. Minh sư truyền cho A Zét một tuyệt chiêu trong hội hoạ, đó là vẽ hình khoả thân của kẻ thù theo trí nhớ, sau đó, dùng một con dao tẩm máu của chính mình, rồi đâm vào trái tim của kẻ thù trong bức vẽ, thế là kẻ thù phải chết.
*
Hắn mở tủ lấy con dao, chuẩn bị tẩm máu của chính hắn để đâm kẻ thù. Hắn cười thích thú, nhìn tác phẩm hoàn tất. Trước mắt hắn, Kim Thị như bằng xương bằng thịt. Cô ta cười tình với hắn. Hắn thấy từng làn da trên bản vẽ đang thở, đang rung lên từng luồng sinh khí. Vứt con dao xuống nền, hắn bỡn cười và đặt môi hôn khắp các bộ phận trên cơ thể bức vẽ.
Hắn khoả thân cùng bản vẽ. Hắn chúi đầu trên bản vẽ cười như bị thọc lét…
Tháng 7, 1994
Phan Trang Hy
Trích từ tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
QUỲNH HOA
Bày biện nào trà, nào thuốc, nào bánh ngọt… trên bàn, ông Bằng ngồi vào ghế, mắt chăm chú nhìn chậu quỳnh chuẩn bị khai hoa. Ông nhớ rõ khi ông bắt đầu yêu là ông yêu luôn sở thích của cô ấy. Và khi kết hôn với cô ấy, tình yêu hoa như càng tăng thêm trong lòng ông. Khi quỳnh chớm nụ là hai vợ chồng đều mong giờ hoa nở. Ông nhớ một lần vợ ông kiếm được chậu quỳnh chớm nụ về, cô ấy đã khoe :
-Anh Bằng ! Em tặng anh !
Mắt cô ấy sáng lên như muốn nói điều gì nữa nhưng lại thôi.
Từng đêm họ chờ hoa nở. Chờ hoài thì có lúc cũng toại nguyện nỗi chờ mong : quỳnh khai hoa. Nụ hoa từ từ mở ra. Hương êm êm ngọt lịm. Cánh hoa trắng muốt trong đêm. Màu trắng mềm mỏng manh, nhẹ tênh. Hương hoa dìu dịu như da con gái dậy mùa.
Tình yêu của họ đẹp theo ngày tháng. Cô ấy đã ngã vào ngực ông trong đêm chờ quỳnh khai hoa. Ông vuốt tóc vợ thầm thì : “Hoa ! Anh yêu em ! Em mãi mãi là của anh !”. Ông mơ màng trong hương tóc. Chợt vợ ông reo lên : “Ồ, thơm quá ! Quỳnh khai hoa.”. Mắt cô ấy sáng lên. Cả không gian đầy hương thơm. Đêm ngời sáng. Cả không gian như nín thở khi quỳnh khai hoa. Cả đất trời như nín thở khi mắt họ nhìn sâu vào nhau. Trong đôi mắt họ ánh ngời lên màu hoa quỳnh. Trong hơi thở của họ quyện hương quỳnh thanh khiết.
*
Cô ấy đã sinh cho ông một đứa con trai. Tình yêu của họ đã khai sinh một con người. Ông lấy làm hạnh phúc. Ông chạy khắp chốn tìm hoa tặng vợ. Cầm đóa quỳnh trên tay, vợ ông cười mừng : “Cảm ơn anh ! Cảm ơn anh đã hiểu lòng em”. Rồi một hôm, cơn bệnh hiểm nghèo đã đến với vợ ông. Cô ấy nắm tay ông, trăn trối : “Anh Bằng ! Kiếp này…em…lỗi hẹn…Xin anh…tha lỗi…cho…em…! Xin…”. Cô ấy vĩnh viễn bỏ cha con ông ra đi. Ông im lặng. Đôi mắt ông xa xăm như muốn nói cùng linh hồn vợ :“Hoa ơi !
Sao em nở bỏ anh ? Rồi ai cùng anh lo cho con ? Ai cùng anh ngắm quỳnh khai hoa, hở em ? Ai ? Ai ? Sao đôi ta chẳng cùng nhau đi suốt cuộc đời này? Sao vậy hở em ?”.
*
Một năm, đôi lần, đợi đêm về, đợi quỳnh nở hoa, ông đến thăm mộ vợ. Cả nghĩa trang chìm lắng trong đêm. Quỳnh, ông đem tặng vợ thơm cả nghĩa trang. Đặt quỳnh hoa trên mộ vợ, ông thầm khấn : “Hoa ơi ! Anh đem quỳnh đến tặng em đây. Một chút lòng thành của anh, xin em nhận lấy. Hoa ơi ! Em có biết không ? Có đêm, một mình nhìn hoa nở, anh lại như thấy em cười cùng anh, thấy em mãi mãi ở bên anh. Giờ, sao em bỏ anh đi mãi thế ? Hoa ơi !”.
Sương đêm bàng bạc cả nghĩa trang. Đóa quỳnh trên mộ chập chờn hình bóng vợ ông. Chập chờn hương thơm của cô ấy trong không gian. Chập chờn cả tiếng vọng mơ hồ : “Anh Bằng ! Xin cảm ơn anh ! Cảm ơn anh đã hiểu rõ lòng em. Kiếp này lỗi hẹn. Xin anh tha thứ cho em !”.
Ông ngồi bên mộ như thể hóa đá. Chợt có tiếng người phụ nữ bên tai : “Xin lỗi ! Xin ông làm ơn cho tôi chút lửa !”. Ông giật mình, chợt tỉnh : “Xin lỗi, bà là…”. Trong sương đêm, giọng người đàn bà nhẹ nhàng : “Dạ, tôi tên là Hồng. Tôi đến thắp nhang cho chồng. Chẳng may hộp quẹt của tôi hết gas lúc nào tôi chẳng hay. Thế ông có lửa không ?”.Ông lấy hộp quẹt từ trong túi của mình đưa cho người phụ nữ. Giọng người đàn bà vẫn nhẹ nhàng : “Xin ông làm ơn quẹt giùm tôi !”. Ông bật lửa lên. Trong ánh hồng chập chờn khuôn mặt dịu dàng của bà ấy…
Người đàn bà cắm nhang trên mộ chồng và những ngôi mộ bên cạnh. Hương nhang hòa với hương quỳnh lan tỏa cả nghĩa trang.
*
Ông cùng bà Hồng đem quỳnh trồng trên hai ngôi mộ trong nghĩa trang. Từ đó, khi quỳnh khai hoa, nghĩa trang không còn bóng đêm. Người ta thấy những khi quỳnh nở, thấp thoáng bóng dáng một người đàn ông và một người đàn bà thơm hương quỳnh hoa.
Tháng 10-2000
Phan Trang Hy
Trích từ tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
QUÀ YÊU
Lệ thường, năm nào cũng vậy, khoảng 20 đến 25 tháng Chạp, tôi cúng tất niên giã từ năm cũ, chuẩn bị đón Xuân mới. Năm nào làm ăn kha khá, tôi thường mời dăm ba đứa bạn đến uống rượu mừng. Còn thì tôi làm trầm trà. Rồi cũng qua chuyện. Nhưng những năm gần đây, đời sống kinh tế ngày càng ổn định và phảt triển, cũng như bao người, gia đình tôi, cứ năm hết Tết đến sắm sửa chút đỉnh tất niên. Tất nhiên là phải mời bạn bè đến chung vui.
Điểm mặt, bạn bè của tôi hầu như đủ cả : thằng Hồng, thằng Anh, thằng Tấn, thằng Lễ, thằng Lê, thằng An. Chỉ vỏn vẹn chừng ấy đứa bạn. Tất cả có mặt. Tất cả đang nói chuyện. Và hầu như - qua tôi - mọi người cũng đã biết nhau.
Bia được rót ra. Chúng tôi nâng ly chúc tụng nhau. Đồ ăn được dọn sẵn. Vợ con tôi xuống nội dự tất niên ở dưới đó. Chỉ còn chúng tôi với nhau. Năm nào cũng vậy, mỗi khi có chút “sương sương”, vợ con tôi biết điều lắm, không bao giờ quấy nhiễu chúng tôi, để mặc chúng tôi ăn uống, nói chuyện.
Độ vài ba ly, đứa thì mặt tái, đứa thì mặt đỏ, nhưng tất cả hầu như đều muốn nói, đều muốn giơ ly chúc tụng nhau. Thằng Hồng, thằng Tấn đi đến đâu là có nụ cười ở đó, nâng ly, giọng oang oang đầy vẻ quan chức, đồng thanh cao hứng : “Xin chúc gia chủ tiền vô như nước, tài lộc dồi dào !”. Tất cả vỗ tay, vỗ tay…
Lời qua tiếng lại, nào là chuyện làm ăn, chuyện các bà xã, chuyện học hành con cái…Nói đi nói lại cũng chừng ấy chuyện…Cái được vui nhất của chúng tôi là cười. Hầu như cả năm làm ăn, không thời gian thăm hỏi nhau, không có chút rảnh để uống ly cà-phê tâm sự cùng nhau, giờ được cười là quá tuyệt vời. Chúng tôi cười xả láng, cười như thể trút tất cả phiền muộn để thành người cười.
Tự dưng lòng tôi có chút bâng khuâng. Cũng nụ cười của tôi nhưng giờ có khác mọi khi. Giờ, tôi cười thành tiếng, cười rũ rượi, cười không bị trói buộc bởi chuyện gì khác. Không phải là nụ cười xã giao, không phải là nụ cười gượng, cũng không phải là nụ cười khi được quà biếu - thi thoảng tôi cũng được quà biếu của phụ huynh, nhất là ngày 20-11, cũng không phải nụ cười buồn khi xa nhau của những kẻ hữu tình.
Không biết các bạn ra sao khi có người hiểu lòng mình, cùng mình uống đôi ly, cùng mình ngà ngà ? Riêng bọn chúng tôi như gần nhau hơn, như phơi lòng cho nhau. Và đến lúc này, chúng tôi không muốn nói gì nữa ngoài chuyện văn nghệ, văn gừng, vui vẻ cuối năm. Chuyện “sương sương” rồi hò hát, có khuấy động con phố nhỏ, trở thành chuyện bình thường với mọi người ở quanh đây. Chúng tôi hát những bài hát thời trai trẻ. Từ “Hát cho dân tôi nghe” đến “Bão nổi lên rồi”, từ “Lá đỏ” đến “Sáu mươi năm cuộc đời”…, ai thuộc đoạn nào thì hát đoạn đó. Không cần đúng nhịp, không cần đúng giai điệu ; miễn là có hát, có nghêu ngao cho đời vui, đời cười trong những ngày cuối năm.
Tôi chuếnh choáng, lấy đũa gõ chén đề nghị mọi người cho tôi hát bài “Cô hàng nước”, coi như một kỷ niệm đẹp của mình, như để nhớ một thời tôi sống thật với lòng mình. Hát xong, tôi yêu cầu An : “Nè An ! Bọn chúng tau muốn nghe mi đọc thơ !”. An là nhà thơ, chúng tôi gọi nó như thế vì thơ nó có lúc được đăng báo, nó cũng in một tập thơ tình ở thế kỷ trước. Mặt An tái. Nó lúng búng : “Ừ ! Thì đọc. Nhưng đợi mình chuẩn bị đã”. Nói xong, nó đứng lên xin phép vào phòng riêng của tôi.
Chúng tôi biết tỏng việc chuẩn bị của nó. Mỗi lần nó đọc thơ thì như thể lên đồng. Phải có quần áo đặc biệt và chỉnh tề, phải trịnh trọng như thể thổ lộ tình yêu với ai đó…Nói chung, nó đọc thơ như đọc kinh trong lễ nhà thờ bằng niềm thành kính tận đáy lòng của nó.
Chúng tôi vẫn cười, vẫn huyên thuyên chi xứ. Và rồi An xuất hiện. Lần này, trước mắt chúng tôi không phải là thằng An ngày thường. Nó mặc bộ quần áo đã cũ, nhưng sạch sẽ. Bộ y phục không còn hợp thời. Thật là buồn cười cho cách ăn mặc của nó ! Quần không ly ; áo như bó sát thân người. Chúng tôi vỗ tay chào mừng An, chào mừng thi sĩ.
An đằng hắng, rồi nâng ly uống một hớp bia. Chậm rãi, nó nói : “Sau đây, tôi xin đọc bài thơ “Quà yêu” mà tôi đã làm mới đây”. Chúng tôi vỗ tay.
Giọng thơ An trầm xuống. Chúng tôi như cuốn vào từng câu chữ, từng lời An đọc. Đại khái, qua bài thơ, chúng tôi hiểu được nỗi lòng riêng của nó. Mười lăm năm trước, nó yêu một cô gái. Biết cô ấy có chồng con mà nó vẫn cứ yêu. Nó làm thơ tặng cô ấy. Bọn chúng yêu nhau, quả là vậy. Nhưng tình yêu của chúng đẹp như những bài thơ làm đẹp cuộc đời. Kể cũng lạ, yêu gì mà cứ hiền khô như bồ tát. Bạn bè biết vậy nên ai cũng trân trọng mối tình “hi hữu” của chúng. Và rồi, mừng ngày nó được đi dạy, cô ấy may tặng nó bộ áo quần, gọi là chút quà.
Và từ đó, chỉ khi đọc thơ tình, An đều lấy bộ quần áo ngày xưa ra mặc như một thứ đồ lễ cho cuộc nguyện cầu thơ. Lời thơ của An cứ trào ra, trào ra như thể lửa cháy bùng trên bờ tình ái.
Tôi như cháy trong lời thơ của An. Giọng An dứt khi nào tôi chẳng rõ. Tôi nhìn lại chính tôi. Tôi đang mặc bộ quần áo mới may, món quà yêu của vợ tôi sắm cho tôi ngày Tết.
Phan Trang Hy
Giáp Thân – 2004
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
CON HEO GÀN DỞ
Thế là mọi sự bắt đầu từ chuyện con heo mà vợ tôi mua cách đây sáu tháng.
Những ngày đầu, chuyện con heo đối với vợ chồng tôi thật là hạnh phúc. Góp nhặt, bòn chắt, cả hai đứa tôi đều mơ ước sẽ nuôi heo để đến Tết giết thịt. Từ ngày hai đứa lấy nhau đến giờ, chưa có năm nào chúng tôi phải lo chuyện thịt bánh. Nhưng năm này trở đi phải khác chứ ! Không lẽ cứ bám riết ông bà già hai bên. Một lần thì được. Hai lần cũng cho là tàm tạm…Không lẽ đến lần thứ chín, thứ mười ! Nhất quyết phen này phải nuôi heo cho bằng được. Có heo, chúng tôi tính như thế này : giết thịt nó trong những ngày giáp Tết, chia bớt ba đùi, mình cũng còn lại một đùi, cái đầu, bộ lòng cúng tất niên. Thật là tuyệt !
Con heo lúc vợ tôi mới mua về nặng khoảng năm ký. Mới nhìn, bạn không chắc nó là heo đâu. Giống con chó con có lông thưa trắng thì đúng hơn. Nhiều anh bạn đến xem tôi khoe heo đã nói đùa : “Vợ chồng mày mua heo về để giữ nhà chắc ?”. Chuyện đùa của các anh bạn ấy, tôi ngẫm đi ngẫm lại thấy đúng thật. Không phải heo giữ nhà mà là tôi. Cứ ngày này qua ngày khác, bữa nọ qua bữa kia, những ngày lên lớp dạy thì khác, còn thời gian rảnh là tôi bám riết lấy con heo để mà tắm rửa, kỳ cọ, cho ăn. Lúc nào con mắt tôi cũng quan sát kỹ nó như thể mỗi lần tôi hướng dẫn học sinh lĩnh hội bài giảng khi tôi sử dụng đồ dùng dạy học. Tôi siêng nhìn ngắm nó vì các cụ bà khuyên tôi phải như vậy để heo mau lớn. Tôi ao ước có phép thần đun ống đu đủ thổi nó phồng to lên. Chứ cái kiểu nuôi heo như tôi chắc có ngày phải giải nghệ.
- Sao ? Suốt ngày tôi nghe anh lằm bằm chuyện heo. Bộ mình anh mệt chắc ? Ăn rồi suốt ngày cứ bám riết lấy mấy quyển sách thì được. Cho heo ăn ngày có bữa cũng cho thế này thế nọ. Nuôi nó cho mình tôi ăn chắc ! Sách, sách, ngày nào cũng sách !
Nghe vợ cằn nhằn, tôi cảm thấy sợ chuyện heo chi lạ ! Tôi mê sách thật đấy, nhưng cũng vừa thôi. Cũng phải mê vợ, mê con chứ, phải không các bạn ? Mà sách tôi đọc những ngày này đâu phải là những cuốn tiểu thuyết dày cộm, đồ sộ, nổi tiếng, cũng chẳng phải là những triết thuyết mới mẻ, hay ho, mà là tôi đọc phương pháp nuôi heo mau lớn. Và kể từ đó, tôi chạy lăng xăng, lưới xưới tìm thức ăn thức uống giàu dinh dưỡng cho heo. Nào là cám, rau xanh, đường, dầu, cá, vị tinh… đều tẩm bổ cho heo. Thế mà con heo ôn dịch vẫn trơ trơ không chịu lên cân.
- Không đọc sách một bữa ăn không ngon à ? Anh nhìn xem, khối người có thèm rờ tới sách đâu mà người ta vẫn sướng ! Sách đọc nhiều có no được bữa nào không ? Suốt ngày, sách với vở !
Thế là bùng nổ chiến tranh trong gia đình tôi. Bộ mặt hai vợ chồng tôi kéo những đám mây tích điện về trang điểm. Không khí nặng trình trịch. Từ miếng cơm nhai chẳng thấy ngon, tới lời nói chẳng thèm muốn nói. Cũng tại con heo ôn dịch. Tôi bắt đầu nghĩ miên man về chuyện heo quéo. Nếu không nuôi nó thì vợ chồng tôi đâu có cãi vả nhau. Nếu không nuôi nó thì chắc trong nhà tôi luôn vang lên điệu nhạc “anh anh em em” ?
Tôi lấy sách ra đọc, còn vợ tôi lên giường nằm. Chúng tôi chẳng tha thiết gì đến chuyện cho heo ăn thêm bữa như lệ thường.
Đến 9 giờ tối, tiếng heo bắt đầu kêu. Vợ tôi vẫn nằm, và tôi vẫn cứ đọc sách. Tiếng heo kêu mỗi lúc một to. Không còn réo gọi mà là tru tréo. Tiếng heo kêu như mũi kim nhọn chích vào màng nhĩ người ta, như cào xước mặt người ta. Tôi giả đò đọc sách, bỗng giật mình.
- Kêu này ! Kêu này !... Mỗi tiếng “kêu này, kêu này” vang lên là tôi nghe tiếng cây nện trên lưng con heo khốn kiếp.
Tôi vẫn cứ giả đò đọc sách. Những ngày đông chí lạnh. Và lạnh nhất là cuộc chiến tranh vì con heo.
Sáng dậy, vẫn còn giận, tôi đi dạy thật sớm, bỏ mặc con heo cho vợ…
Tiếng pháo giao thừa rộn nổ. Tôi châm lửa đốt dây pháo Nam Ô chính hiệu dài 2 mét. Đợi tan khói pháo, đợi dứt lễ Hành Khiển, vợ chồng tôi ngồi bên bàn trà cắn hạt dưa, ăn mứt… Tất cả các thứ sắm mừng Tết đều nhờ vào con heo.
- Anh thấy không ? Mình nuôi heo cũng lợi anh nhỉ ? - Vợ tôi nhìn tôi với đôi mắt sáng rực như cả mùa xuân đang tràn vào mắt cô - Năm mới, mình tiếp tục nuôi heo chứ anh ?
- Ờ.
Tôi ậm ờ trả lời.
Pháo mừng xuân mới vẫn còn rộn nổ.
Xuân Giáp Tuất - 1994
Phan Trang Hy
Trích trong tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009
Truyện ngắn của Phan Trang Hy
VÀNG MAI
Đưa chén trà lên môi, nhắp nhẹ, giọng từ tốn, tôi khẽ nói : “Bác có khi nào tìm về chốn cũ ấy chăng ?”. Lão già nước mắt lưng tròng, gượng cười : “Thầy giáo ạ ! Trước đây thì có, giờ thì chân chùn gối mỏi làm sao mà đến được. Âu cũng là phận cả ! Thế thầy có tin mỗi cuộc đời đều có phận của nó không ? Tôi thì tôi tin thầy ạ ! Càng già thì càng tin. Chả bù với thời trẻ”.
- Bác nói thế thì tôi tin thế. Mà đã có phận tất có duyên. Cũng nhờ có duyên mà tôi được làm quen với bác đấy.
Lão cười : “Thầy khéo nịnh ! Mà thôi ! Giờ thì tôi đưa thầy đi xem mai”.
Tôi cùng lão ra vườn. Gọi là vườn cho nó “khí thế”, chứ thực ra ở cái thành phố đang phát triển này làm gì có đất rộng để làm vườn.
Chả bù lúc ngồi nói chuyện. Giờ thì lão huyên thuyên khoe với tôi. Cả thảy 21 chậu mai. Nào là Hồng Diệp Mai tậu từ Sài Gòn ; nào là Thanh Mai ở tuốt Bình Định ; nào là Bạch Mai mua tận Thái Lan…Dẫu không có đất, thế mà lão có từng ấy chậu mai, quả thật là tuyệt ! Lão tỉ mỉ giới thiệu cho tôi cái thú chơi mai. Phải biết đợi chờ mai nở, đếm cánh mai nhiều hay ít để đoán tài lộc, may mắn trong năm. Phải cảm nhận được hương thơm của mai, hiểu được cốt cách - tinh thần của mai. Phải thở với hơi thở của mai, hít khí trời như mai… Lão cũng lên lớp với tôi : “Như anh biết đấy ! Tết đến mà thiếu mai thì mất cả hương vị của ngày xuân, mất cả tình xuân”. Con mắt của lão hóm lên ngời sáng như trêu tức tôi. Tôi chỉ còn biết : “Dạ vâng ! Dạ vâng ! Bác nói phải !”.
Lão chào hàng cả thảy 20 chậu mai. Chỉ còn một chậu là lão không đả động gì đến nó. Theo tôi biết, đây là chậu mai núi bình thường. Nhưng, thế của cây mai quả là chỉ có tay sành điệu mới tạo được dáng như thế. Thanh mảnh, dáng dấp con gái. Nhìn chậu mai, tôi nghe như có tiếng thì thào của đất, của trời. Và từ cây mai toát ra cả mùi của suối rừng và nắng mới. Dẫu là thứ mai núi, nhưng chậu mai đã cảm hóa được tôi. Tôi cảm thấy hồn mình như đẹp thêm ra. Quả là chậu mai núi đã thuyết phục được tôi trong chừng mực nào đó. Tôi bèn đề nghị lão :
- Bác để chậu này cho tôi !
- Cũng có nhiều người nài nỉ tôi. Nhưng có đựợc giá mấy đi nữa, tôi cũng không thể bán - giọng lão chợt buồn như khi ngồi uống trà với tôi trước đó - Nó là một phần hồn của tôi mà. Không có nó, tôi cần sống làm gì nữa. Xin thầy giáo thông cảm cho tôi !
- Bác nói thế thì tôi chẳng dám đâu. Nhưng tôi xin bác kể cho tôi biết sao nó cần thiết với bác đến như vậy ?
- Ta vô nhà nói chuyện.
Chúng tôi lại ngồi vào chỗ như trước khi xem mai. Vẫn không khí trầm lắng. Lão rót trà.
- Mời thầy giáo uống trà ! Tôi sẽ kể thầy nghe.
Tôi không dám đưa chén trà lên môi uống, chỉ chú mục vào lão. Giọng lão run run : “Chậu mai khi nãy, cả cô ấy nữa, cả chốn ấy nữa là một đấy, thầy giáo ạ ! Nhìn thấy nó là tôi nhìn thấy cô ấy, chốn ấy. Thử hỏi như thế thì làm sao tôi để mất nó được”.
Và lão kể…
Giọng lão trầm hẳn xuống. Tôi chơi vơi trong câu chuyện. Nguyên trước đây, lão là đại đội trưởng quân giải phóng. Xuân 1968, đơn vị lão được lệnh tấn công huyện lỵ Đại Lộc. Tham gia chiến dịch này, cấp trên đã phái xuống đơn vị lão một nữ chiến sĩ. Thực ra, người nữ chiến sĩ ấy là nhà thơ. Theo lão kể, cô tham gia trận đánh là để làm thơ.
Kể từ ngày cô về đơn vị, tâm hồn lão như sáng thêm ra. Cái duyên ít thấy ở người đàn ông, ở người lính, lúc ấy phát ra thứ ngôn ngữ của “thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Cô ấy viết được câu thơ nào đều đưa lão đọc. Đôi khi cô ấy chép những vần ca dao về chuyện lứa đôi tặng lão. Dù không nói gì với nhau, nhưng mùa xuân tràn ngập trong mắt dịu dàng của họ. Họ như là của nhau.
Trận đánh năm ấy, quân ta gây được tiếng vang. Thế nhưng, nỗi mất mát trong lão là cô ấy đã hy sinh khi chưa viết xong bài thơ cho trận đánh.
Khi rút quân về hậu cứ, đơn vị lão đã an táng cô gái trong rừng mai. Mùa xuân vẫn còn rực vàng như chưa hề có sự đau buồn và mất mát ở đây. Lão đã khắc tên cô trên đá - đánh dấu nơi an nghỉ của một con người, của một đồng đội, của một trinh nữ, của một nhà thơ.
Đơn vị lão về hậu cứ an toàn. Đêm ấy, máy bay giặc Mỹ thả bom phía rừng mai. Mỗi tiếng bom nổ là vằm thêm trái tim lão. Lão trơ con mắt. Con mắt đỏ theo tiếng bom. Cả khu rừng mai phía ấy cũng đỏ lên…
Sáng hôm sau, khi trở lại rừng mai, lão không tin ở mắt mình. Không còn dấu tích của người con gái ấy ; không còn dấu tích của mùa xuân. Lão rưng rức cúi đầu…
Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, lão về lại chốn xưa, đúng cái ngày cô ấy hy sinh. Lão ngợp hồn trong sắc vàng của mai, lâng lâng chơi vơi trong hương mai. Lão thấy mình như trẻ lại trong tiếng réo gọi của mùa xuân. Lão nằm, nhìn lên đầy vàng mai. Lão ngồi xuống, mai vàng. Lão chạy trong vàng mai. Lão bay trong mai vàng. Bay trong mùa xuân của núi rừng. Trong màu vàng xuân lão thấy hình như cô ấy ẩn hiện đọc những vần thơ về mối tình đầu của họ.
Về lại thành phố, lão đem theo một cây mai rừng như là để tìm hình bóng cũ. Cả mùa xuân của đời lão được vun vén, chăm sóc, nuôi dưỡng ở trong chậu mai rừng…
…Lão đã khóc.Và cứ khóc. Lão nói trong tiếng khóc. Tôi nghe tiếng khóc của lão : “Tôi tìm hoài cô ấy mà không thấy. Chỉ có mai rừng, chỉ có sắc vàng của mai. Tôi già rồi làm sao về lại chốn ấy, làm sao tìm được cô ấy, làm sao đọc được bài thơ cô ấy chưa viết xong ?...”.
Một năm sau, tôi đến thăm lão. Lão không còn. Tôi tự trách mình sao quá vô tình không thắp được một nén hương cho ấm linh hồn lão khi lão ra đi. Xin lão tha thứ cho tôi !
Rời căn nhà trước đây lão đã ở, tôi hòa vào dòng người sắm Tết. Tôi vào chợ hoa ở Quảng trường 29-3. Tôi không thấy gì ngoài hoa. Những cành hoa đơm nụ. Người ta đang bán mùa xuân. Người ta đang mua mùa xuân. Người ta trao nhau mùa xuân. Tôi chọn mùa xuân cho mình : vàng mai.
Xuân Canh Thìn - 2000
Phan Trang Hy
Trích trong tập truyện NGƯỜI THẦY DẠY BÚP BÊ, Nxb Văn nghệ, 2009

Edition Notes

Published in
HCM, VietNam

The Physical Object

Format
Paperback
Number of pages
124
Dimensions
19 x 13 x centimeters
Weight
140 grams

ID Numbers

Open Library
OL25175205M

Community Reviews (0)

Feedback?
No community reviews have been submitted for this work.

Lists

This work does not appear on any lists.

History

Download catalog record: RDF / JSON
September 25, 2012 Edited by truong dinh Edited without comment.
January 23, 2012 Edited by truong dinh Edited without comment.
January 23, 2012 Created by truong dinh Added new book.